Thực Trạng Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam Hiện Nay


đều sẽ không mang lại hiệu quả thực sự nếu mỗi DNBH không thực hiện nghiêm những qui định của pháp luật và những thoả thuận mà các DN đã cùng nhau thống nhất. Nếu cứ kéo dài thực trạng cạnh tranh như hiện nay, các DNBH cũng sẽ “kiệt sức” và tất yếu nảy sinh các hành vi tiêu cực.

2.2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam hiện nay

Năng lực cạnh tranh của các DNBH được cấu thành bởi các yếu tố : Thương hiệu DN (thể hiện qua doanh thu, thị phần, tốc độ tăng trưởng), năng lực tài chính, nguồn lực con người và kinh nghiệm hoạt động khai thác sản phẩm và đầu tư. Thông qua việc đánh giá các yếu tố này có thể thấy rõ năng lực cạnh tranh của các DNBHPNT Việt Nam trong thời gian vừa qua. Cụ thể như sau:

2.2.2.1. Doanh thu, thị phần, tốc độ tăng trưởng

Sau hơn 10 năm hoạt động, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào tăng nhanh, đến cuối năm 2006 thị trường BHPNT Việt Nam đã có 21 công ty tham gia kinh doanh bao gồm: 1 doanh nghiệp Nhà nước, 11 công ty cổ phần, 4 công ty liên doanh, 5 công ty 100% vốn nước ngoài. Các DNBHPNT của Việt Nam tương đối nhanh nhạy trong việc nắm bắt nhu cầu đa dạng của thị trường, hàng loạt các sản phẩm BHPNT mới được ra đời, kết quả là doanh thu phí BHPNT ngày một tăng, đóng góp đáng kể vào GDP. Nếu năm 2003 doanh thu BH gốc toàn thị trường là 3.875 tỷ VNĐ, năm 2005 là 5.486 thì đến năm 2006 đã đạt tới 6.360 tỷ VNĐ tăng 16% so với năm 2005 (chưa tính đến doanh thu của Công ty bảo hiểm Toàn Cầu: 46 tỷ và AIG). Trong đó dẫn đầu là Bảo Việt Việt Nam với

2.217 tỷ VNĐ, tiếp đến là Bảo Minh 1.386 tỷ VNĐ, PVI là 1.163 tỷ VNĐ... Riêng trong 3 tháng đầu năm 2007 đạt tới 1.794 tỷ VNĐ, tăng 20,25% so với cùng kỳ năm 2006. Có thể thấy rõ doanh thu và tốc tăng trưởng của thị trường BHPNT Việt Nam qua Bảng 2.5 sau đây:

Biểu 2.5: Doanh thu và tốc độ tăng trưởng của DNBPNT Việt Nam giai đoạn 2003-2006



Doanh nghiệp

2003

2004

2005

2006

Qúy I

2007

I. Doanh thu (tỷ đồng)

3.875

4.768

5.486

6.360

1.794

Bảo Việt

1.618

1.929

2.119

2.217

444

Bảo Minh

873

1.058

1.178

1.386

357

PJICO

334

600

710

670

165

PVI

538

552

710

1.163

543

PTI

156

208

265

281

58

Bảo Long

57

93

113

111

27

Các DN còn lại

299

328

391

532

200

II. Tốc độ tăng

trưởng (%)


48


23


15


16

20,25*

Bảo Việt

-

19

0,98

4,63

-

Bảo Minh

-

21

11

17,64

-

PJICO

-

79,6

18

-5,69

-

PVI

-

0,26

28,6

63,79

-

PTI

-

33

27

5,91

-

Bảo Long

-

63

21

-1,65

-

Các DN còn lại

-

0,96

19

36,06

-

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam - 7



2006

Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng 3 tháng đầu năm 2007 tăng 20,25 so với cùng kỳ năm


Nguồn: [48]; [13, tr.72-73]; [14, tr.32-33].

Thương hiệu của các DNBHPNT ngày càng được chú trọng hơn, điều đó được thể

hiện thông qua cuộc bình chọn các thương hiệu mạnh do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức, trong đó PJICO hai năm liền (2004, 2005) là DN được bình chọn, và đến năm 2006 PVI "lên ngôi".. Ngoài ra, ở Việt Nam có 4 DNBHPNT là: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO và PVI được cấp chứng chỉ ISO 9000 - bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng nhằm đưa ra các chuẩn mực cho hệ thống chất lượng. Việc DNBHPNT Việt Nam được bình chọn


thương hiệu mạnh và cấp chứng chỉ ISO 9000 thể hiện khả năng của DN đó đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời nâng cao vị thế của DN trên thị trường. Chính thương hiệu mạnh đã góp phần mang lại thị phần lớn cho các DNBHPNT. Có thể thấy rõ thị phần của các DNBHPNT Việt Nam qua biểu số liệu 2.6 sau:

Biểu 2.6: Thị phần của các DNBHPNT giai đoạn 2003 - Qúy 1/2007


TT


Doanh nghiệp

Thị phần( %)

2003

2004

2005

2006

Qúy I

2007

1

Bảo Việt

41,75

40,46

38,63

34,87

24,77

2

Bảo Minh

22,53

22,19

21,75

21,80

19,90

3

PJICO

8,62

12,58

13,37

10,54

9,24

4

PVI

13,88

11,58

12,48

18,31

30,28

5

PTI

4,03

4,36

4,66

4,42

3,25

6

Bảo Long

1,47

1,95

1,92

1,76

1,53

7

Các DN còn lại

7,72

6,88

7,19

8,3

11,03

Nguồn: [47]; [13, tr.73]; [14, tr.33].

Từ kết quả bảng trên có thể thấy, doanh thu và thị phần của hai DN lớn là Bảo Việt và Bảo Minh rất cao, chiếm tới 57% tỷ trọng toàn thị trường (năm 2006). Nhưng chỉ trong 3 tháng đầu năm 2007 PVI đã vượt lên dẫn đầu toàn thị trường với 30,28% thị phần. Điều đó cho thấy thương hiệu của các DN này trên thị trường BHPNT Việt Nam. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường DVBH đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của thị trường BH Việt Nam. Cùng với số lượng tăng lên của các sản phẩm BH, sự xuất hiện của những gương mặt mới trên thị trường DVBH kể từ năm 1994 đã làm thay đổi thị phần trên thị trường này. Năm 1995, thị phần của Bảo Việt là 82%, Bảo Minh là 16%, 2% còn lại là của các DNBH khác, đến nay thị phần của hai DN này đã giảm đi đáng kể, đó cũng


là quy luật tất yếu. Ngoài ra các DNBH cổ phần lớn như PJICO, PTI ...cũng đang dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường.

Có thể nói, hiện nay doanh thu của các DNBHPNT Việt Nam chiếm thị phần đa số (khoảng 90% doanh số của toàn thị trường). Sở dĩ các DNBHPNT Việt Nam trong những năm gần đây đạt được mức phí BH cao như vậyclà do nhiều nguyên nhân trong đó có hai nguyên nhân cơ bản là: do số lượng các DNBHPNT nước ngoài trên thị trường Việt Nam còn ít (chỉ có 5 DN 100% vốn nước ngoài) và do hiện nay các DNBHPNT nước ngoài bị hạn chế phạm vi kinh doanh trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ BH, họ chỉ được khai thác một số sản phẩm BH nhất định. Tất cả những điều này trong thời gian tới sẽ không còn nữa vì Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, các DN Việt Nam trong thời gian tới sẽ đứng trước áp lực cạnh tranh rất lớn bởi vì khi đó Chính phủ Việt Nam phải tuân theo những lộ trình mở cửa như đã cam kết.

Đối với nhiều lĩnh vực BH như: BH trách nhiệm, BH cho những công trình trọng điểm, BH cho lĩnh vực có vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và một số loại hình BH kỹ thuật trong những năm vừa qua không cho phép các DNBHPNT nước ngoài khai thác thì chắc chăn rằng đến ngày 01/10/2007 khi hiệp định song phương BTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được 6 năm, đồng nghĩa với việc thị trường BH nước ta phải “mở toang cánh cửa” để cho các công ty BH Hoa Kỳ và DNBH các nước khác cạnh tranh “sòng phẳng” với các DNBHPNT của nước ta. Vì vậy các DNBHPNT Việt Nam cần phải nhìn lại mình cũng như phải chấp nhận cuộc chơi với các DNBH nước ngoài trước thềm hội nhập. Đồng thời các cơ quan chức năng và các DNBHPNT Việt Nam cũng cần phải chủ động đánh giá lại những vấn đề còn tồn tại. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước cần phải hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động kinh doanh BH cho phù hợp với đặc thù và bản chất của lĩnh vực dịch vụ đặc biệt này nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và giám sát DNBH.

2.2.2.2. Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của DNBH được xem xét chủ yết qua các chỉ tiêu như: khả năng về vốn, trích lập các qũy dự phòng và hoạt động tái BH. Cụ thể như sau:

* Khả năng về vốn của các DNBH:


Hiện nay, quy mô vốn của các DNBHPNT Việt Nam còn hạn chế, tương quan về vốn và thị phần giữa các DNBHPNT có vốn nước ngoài và các DNBHPNT của Việt Nam có sự chênh lệch tương đối đáng kể.

Theo quy định của "Luật kinh doanh bảo hiểm", yêu cầu về vốn pháp định đối với các DNBH như sau:


TT

Loại hình doanh nghiệp

Mức vốn pháp định

1

DNBHPNT

140 tỷ VNĐ hoặc 10 triệu USD

2

DNBHNT

70 tỷ VNĐ hoặc 5 triệu USD

3

Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm

4 tỷ VNĐ hoặc 300.000 USD

Trước năm 2002, một số DNBHPNT hoạt động trên thị trường có mức vốn điều lệ dưới 70 tỷ VN đồng (Bảo Long: 24 tỷ, PJICO: 55 tỷ, PTI: 64 tỷ). Sau khi “Luật kinh doanh bảo hiểm” có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn thi hành luật được ban hành, để đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định, đồng thời để tăng khả năng về tài chính, các DN đã chú trọng tới việc tăng vốn điều lệ dưới nhiều hình thức như phát hành cổ phiếu...

Dưới đây cho biết tiềm lực về vốn của các DNBHPNT Việt Nam.

Biểu 2.7: Thực trạng về vốn của các DNBHPNT trên thị trường bảo hiểm Việt Nam

Đơn vị: tỷ VNĐ


TT

Doanh nghiệp

Vốn điều lệ

2001

2002

2003

2004

2005

2006

1

Bảo Việt Việt Nam

586

586

-

900

900

900

2

Bảo Minh

-

-

-

1.100

1.100

1.100

3

PJICO

55

70

70

70

70

140

4

PVI

-

-

-

100

100

150

5

PTI

64

70

70

70

70

105

6

Bảo Long

24

50

50

70

70

160

Nguồn: [48]; [31, tr.33].


Như vậy, các DNBHPNT đã đáp ứng được yêu cầu của Nghị định 43/2001/NĐ-CP quy định các DNBH có số vốn thấp hơn mức vốn pháp định trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực (ngày 15/08/2001) phải bổ sung vốn điều lệ không thấp hơn vốn pháp định. Với số vốn như trên, thì ngoài các DNBH là Bảo Việt, Bảo Minh và PVI thì các DNBHPNT còn lại mới chỉ đáp ứng được yêu cầu về vốn pháp định. Mà lượng vốn để cho các DN hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhằm tăng khả năng cạnh tranh và năng lực tài chính thì cần phải lớn hơn rất nhiều. So với các DN Nhà nước và các DN có vốn đầu tư nước ngoài thì khả năng về vốn của các DNBH cổ phần còn rất khiêm tốn. Chính điều này đã khiến cho khách hàng chưa thực sự yên tâm khi tham gia bảo hiểm. Sở dĩ có tình trạng trên là do những nguyên nhân sau:

- Một là, do mức vốn pháp định trước đây quy định nhỏ (20 tỷ VNĐ hoặc 2 triệu USD đối với DNBH Việt Nam và Công ty liên doanh - Điều 22 Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993) . Điều này đã hạn chế qui mô về vốn của các DNBH, khiến các DN này khó có thể theo kịp yêu cầu về vốn khi “Luật kinh doanh bảo hiểm” được ban hành có hiệu lực.

- Hai là, các DNBH chưa chú trọng tới việc tăng vốn mà chỉ mới chú trọng tới việc khai thác, mở rộng thị phần. Cho tới hiện nay, việc tăng vốn điều lệ của các DNBH thực hiện phần nào còn mang tính đối phó, chỉ cần huy động vốn đủ theo yêu cầu của "Luật kinh doanh bảo hiểm". Ngoài ra các DNBH cổ phần còn phải chịu sức ép duy trì và tăng trưởng ổn định lợi tức cổ phần của các cổ đông, đây là khó khăn đối với các DNBHPNT cổ phần khi muốn tăng vốn chủ sở hữu để tăng năng lực tài chính của DN mình.

Đặc biệt là đối với các DNBHPNT cổ phần, số vốn nhỏ đã hạn chế khả năng nhận BH và tỷ lệ phí giữ lại còn thấp. DNBH còn phải phụ thuộc nhiều vào tái BH khi khai thác dịch vụ. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các DN.

* Tình hình trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ

ở nước ta từ năm 1994, theo Thông tư 45/TC/CĐTC ngày 30/05/1994 của Bộ tài chính quy định các DNBHPNT đều phải trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ như : dự phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn. Sau khi "Luật kinh doanh bảo hiểm" có hiệu lực, Thông tư số 99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 của Bộ tài chính quy định các quỹ dự phòng nghiệp vụ BHPNT (bao gồm: dự phòng phí chưa được hưởng; dự


phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết; dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất) và phương pháp trích lập các loại dự phòng này.

Tuân thủ quy định của pháp luật và để đảm bảo khả năng tài chính phục vụ cho việc thanh toán bồi thường và trả tiền BH, các DNBHPNT đã thực hiện việc trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ cho các năm tài chính. Nhưng do dự phòng nghiệp vụ có nguồn gốc từ phí BH giữ lại của các DN nên thông thường, lượng trích lập dự phòng nghiệp vụ hàng năm biến động tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng về doanh thu phí BH thuần của DNBH.

Trong thực tế việc trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ tại các DNBHPNT đã bộc lộ những hạn chế sau:

- Thứ nhất, quy định của Thông tư 99/2004/TT-BTC đã cho các DNBH được lựa chọn phương pháp trích lập dự phòng khác nhau và các phương pháp này có thể thay đổi giữa các năm, điều này dẫn tới việc thực hiện trích lập không thống nhất giữa các DNBH, gây khó khăn cho cơ quan quản lý. Ngoài ra, do qũy dự phòng nghiệp vụ được tính vào chi phí kinh doanh của DN nên các DN thường sử dụng các phương pháp trích lập như một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh kết quả kinh doanh hàng năm.

- Thứ hai, để việc trích lập dự phòng phí theo phương pháp hệ số được chính xác thì đòi hỏi công tác thống kê và hệ thống phần mềm quản lý hợp đồng BH, hồ sơ bồi thường của các DN phải tiện ích và phù hợp. Đây là một khó khăn đối với các DNBHPNT Việt Nam, đặc biệt khối các DN cổ phần do các DN này hầu như đều có thời gian hoạt động chưa nhiều, doanh thu hạn chế nên việc đầu tư cho các phần mềm quản lý còn thiếu đồng bộ. Cũng theo quy định tại Thông tư 99/2004/TT-BTC thì từ năm 2006, phương pháp trích lập theo tỷ lệ % sẽ không được sử dụng. Quy định này đòi hỏi các DN phải xây dựng và hoàn thiện ngay hệ thống thống kê và hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác này.

- Phương pháp trích lập dự phòng theo hệ số phát sinh bồi thường đòi hỏi tính ổn định tương đối cao về tổn thất phát sinh của các DN qua từng năm. Tuy nhiên, thực tế thị trường DVBH nước ta còn phát triển ở trình độ thấp, các sản phẩm BH chưa phong phú, số vụ tổn thất mang tính thảm hoạ chưa nhiều, đặc biệt là đối với các DNBHPNT mới thành lập. Do đó, nếu chỉ dựa vào số liệu thống kê tổn thất của các năm trước để


trích lập dự phòng bồi thường sẽ dẫn đến trích lập chưa đủ, không đảm bảo để chi trả bồi thường. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin và phần mềm phục vụ công tác thống kê và quản lý dữ liệu về tổn thất, bồi thường tại một số DNBH nhỏ hiện nay vẫn chưa ổn định nên việc các DN này áp dụng phương pháp này sẽ gặp khó khăn.

* Hoạt động tái bảo hiểm

Năng lực tài chính của các DNBHPNT còn được biểu hiện thông qua hoạt động tái BH. Việc tăng tỷ lệ phí BH giữ lại không những làm tăng vốn có thể đầu tư của DN mà còn cho phép DN được chủ động hơn khi khai thác các dịch vụ BH.

Thông qua hoạt động kinh doanh nhượng tái BH, các DNBHPNT đã góp phần làm tăng tỷ lệ phí BH giữ lại trong nước, tăng tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế, nâng cao năng lực tài chính cũng như năng lực cạnh tranh. Số liệu ở biểu 2.8 dưới đây cho thấy tình hình tái BH của các DNBHPNT.

Bảng 2.8: Hoạt động tái bảo hiểm của các DNBHPNT giai đoạn 2003 - 2006

Đơn vị: tỷ VNĐ


Chỉ tiêu

2003

2004

2005

2006

1. Phí BH gốc

3.875

4.768

5.486

6.360

2. Phí nhượng TBH

1.215

1.609

1.641

2.491

3. Tỷ lệ phí nhượng TBH/ Phí BH

gốc

31,35%

33,75%

29,91%

39,16%

4. Phí nhận tái BH

38

63

98

556

5. Phí BH giữ lại + Phí nhận TBH

2.638

3.222

3.992

4.425

6. Tỷ lệ phí BH giữ lại + Phí nhận

TBH/Phí BH gốc

68,08%

67,58%

72,12%

69,57%

Nguồn: [48]; [13, tr.72-73].

Qua bảng số liệu cho thấy năng lực của các DNBHPNT thông qua hoạt động tái cũng được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ phí BH giữ lại của các DNBHPNT đã tăng lên đều đặn

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 06/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí