Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Kinh Doanh Bảo Hiểm Nhân Thọ

định gây khó khăn không nhỏ, bởi nếu áp dụng quy định mà từ chối phê chuẩn điều khoản của doanh nghiệp hoặc buộc sửa đổi nội dung thì sẽ gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp mà không yêu cầu thay đổi thì lại cũng vi phạm pháp luật. Một ví dụ điển hình cho trường hợp này là quy định về việc thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ. Theo quy định tại Điều 34 của Luật kinh doanh bảo hiểm (2000), trường hợp người được bảo hiểm khai nhầm tuổi mà theo tuổi đúng, người đó không được nhận bảo hiểm thì doanh nghiệp có quyền hủy hợp đồng và trả lại cho bên mua bảo hiểm:

- Số phí bảo hiểm đã đóng sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý có liên quan nếu hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 02 năm;

- Giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm nếu hợp đồng có hiệu lực từ đủ 02 năm trở lên.

Quy định này có điểm bất hợp lý ở chỗ:

Thứ nhất: Giá trị hoàn lại của hợp đồng trong nhiều trường hợp (đặc biệt là ở những năm đầu) thấp hơn đáng kể so với số phí bảo hiểm đã đóng. Như vậy, quy định đã đi ngược lại mục đích dự kiến khi xây dựng là bảo vệ quyền lợi cho bên mua bảo hiểm. Với quy định như vậy, rõ ràng khách hàng đã mua bảo hiểm thời hạn càng dài lại có nguy cơ thiệt thòi hơn so với khách hàng mới mua bảo hiểm. Khi đưa vào vận dụng trong thực tế, quy định này đã làm phát sinh một số tranh chấp không đáng có với khách hàng.

Thứ hai: Quy định tại khoản 2, Điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm đưa ra chế tài đối với bên mua bảo hiểm có hành vi thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm là "hủy bỏ hợp đồng" nhưng lại áp dụng hai hậu quả pháp lý (như đã nêu ở trên) hoàn toàn khác nhau và không đúng với bản chất của hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 425 Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2005. Theo Điều 425 thì:

1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định…; 3. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền; 4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại [28].

Về nguyên tắc, hậu quả pháp lý của hợp đồng bị hủy bỏ cũng giống như hợp đồng vô hiệu, nghĩa là hợp đồng coi như chưa giao kết, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, và các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như khi chưa có hợp đồng, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp này, nếu quy định như khoản 2 Điều 34 là: "... bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm thì phải chịu hậu quả pháp lý - nhận giá trị giải ước khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên" là không đúng với bản chất của hợp đồng bị hủy bỏ được quy định tại Bộ luật dân sự. Bởi vì, quy định việc hoàn trả giá trị giải ước nghĩa là đồng thời công nhận hợp đồng bảo hiểm đó vẫn có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết đến khi bị hủy. Và như vậy, nếu rủi ro của khách hàng xảy ra trước thời điểm hợp đồng bị hủy thì doanh nghiệp vẫn phải bồi thường thiệt hại hoặc trả tiền bảo hiểm.

Khoản 2, Điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ quy định việc bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm mà không đề cập đến yếu tố lỗi (cố ý hay vô ý) của hành vi đó. Vấn đề đặt ra là, giả sử bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật về tuổi của người được bảo hiểm thì lúc đó sẽ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng theo khoản 2 Điều 34 hay đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí đến thời điểm đình chỉ theo khoản 2 Điều 19 hay xử lý hợp đồng vô hiệu theo khoản 2 Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm.

* Cần có hướng dẫn và quy định cụ thể về vấn đề nghĩa vụ cung cấp thông tin và giải thích hợp đồng bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khi giao kết hợp đồng (quy định tại Điều 17 khoản 2(a); Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm, để tránh trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng quy định này để lẩn tránh nghĩa vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm không thể chứng minh ngược lại được. Thực tiễn kinh doanh cho thấy, có nhiều tranh chấp phát sinh giữa các bên là do bên mua bảo hiểm thường đưa ra lý do không hiểu hoặc không được giải thích về nội dung hợp đồng bảo hiểm để lẩn tránh nghĩa vụ, phản ứng với việc giải quyết của doanh nghiệp bảo hiểm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

* Một số nội dung cần thiết được pháp luật quy định nhưng lại chưa xuất hiện trong các văn bản pháp luật tại Việt Nam. Lịch sử phát triển bảo hiểm nhân thọ trên thế giới đã ghi nhận một số nội dung cần được pháp luật ghi nhận như một đảm bảo cho quyền lợi của khách hàng tham gia bảo hiểm và đảm bảo sự phát triển ổn định của doanh nghiệp bảo hiểm. Một số quy định như vậy cho đến nay chưa hề được pháp luật nước ta đề cập đến ở bất cứ văn bản nào, tạo ra sự thiếu thống nhất trong điều khoản sản phẩm của các doanh nghiệp.

Chẳng hạn, quy định về thời gian tự do xem xét, pháp luật Việt Nam không hề có một quy định nào về nội dung này. Kết quả là các doanh nghiệp áp dụng các thời hạn khác nhau (trong 8 doanh nghiệp hiện nay ở nước ta, có doanh nghiệp thì áp dụng thời hạn là 14 ngày, có doanh nghiệp lại áp dụng thời hạn là 21 ngày).

Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 9

* Ở Việt Nam, cho đến thời điểm này, chưa có quy định pháp lý về việc sử dụng các thuật ngữ bảo hiểm mặc dù đây là những thuật ngữ phức tạp, rất khó hiểu đối với đa số người mua bảo hiểm. Ví dụ như một số thuật ngữ: Thời hạn xem xét lại; điều khoản miễn truy xét; giá trị hoàn lại thực nhận... Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường còn chưa thống nhất.

Mặc dù các công ty bảo hiểm cần được tự do đưa ra các điều khoản và điều kiện hợp đồng bảo hiểm do đây cũng là một trong những phương tiện quan trọng để cạnh tranh, nhưng các công ty cần bị bắt buộc sử dụng các thuật ngữ thống nhất phù hợp với quy định của luật, ví dụ như một số thuật ngữ "thời gian gia hạn nộp phí" được sử dụng trong điều khoản hợp đồng của công ty bảo hiểm trong khi đó từ dùng trong luật bảo hiểm là "đóng phí"; Trong các điều khoản, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dùng cả hai thuật ngữ như "giá trị giải ước/giá trị hoàn lại", còn từ dùng trong luật bảo hiểm là "giá trị hoàn lại"; Điều khoản hợp đồng của công ty bảo hiểm sử dụng thuật ngữ "Người tham gia bảo hiểm ", còn từ dùng trong luật bảo hiểm là "Bên mua bảo hiểm"...

* Một lĩnh vực còn thiếu những quy định pháp luật cụ thể là việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng khi công ty bảo hiểm quyết định chấm dứt hoạt động trên thị trường hoặc công ty bảo hiểm bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Việc một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường không thể đơn giản như các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp, dịch vụ khác do khách hàng của công ty bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng chưa nhận được hàng hóa, dịch vụ thực tế, mà mới chỉ nhận được lời hứa. Việc chuyển giao lời hứa từ một công ty sang một công ty khác không thể đơn giản như việc chuyển giao các tài sản hữu hình. Trong trường hợp xấu hơn, công ty không chủ động chấm dứt hoạt động mà trở nên mất khả năng thanh toán.

Mặc dù cho đến nay, tại Việt Nam chưa có công ty bảo hiểm nhân thọ nào rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nhưng vấn đề này cần được quy định đầy đủ và chi tiết trong các văn bản pháp lý. Vì khác với các ngành khác, việc phá sản của một công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng tới toàn ngành, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Có thể thấy, các quy định pháp luật hiện nay đã quy định về biên khả năng thanh toán và quy định các biện pháp khôi phục

khả năng thanh toán, nhưng chưa có quy định chi tiết việc quản lý các công ty mất khả năng thanh toán và việc áp dụng các biện pháp khôi phục.


3.2. HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ

Từ những vấn đề vướng mắc nêu trên, trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ hiện hành và quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của các nước có dịch vụ này đã phát triển, người viết xin được kiến nghị một số giải pháp khắc phục những vướng mắc nói trên.

Những điểm cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật:

* Việc ban hành các văn bản pháp lý, tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và trong bối cảnh cần xây dựng một thị trường bảo hiểm lành mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, Nhà nước cần đặt các doanh nghiệp trong một sân chơi chung, các quy định pháp luật cần được ban hành theo hướng nhất thể hóa, nghĩa là không có sự ưu ái kể cả vấn đề tổ chức thành lập và hoạt động. Như đã trình bày ở trên thì Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh các hoạt động của chi nhánh các doanh nghiệp bảo hiểm mà không có sự phân biệt đó là chi nhánh của công ty nhà nước hay cổ phần hay 100% vốn nước ngoài.

Thực tế các đơn vị trực thuộc của các doanh nghiệp bảo hiểm dù tổ chức dưới hình thức gì hay chăng nữa cũng đều hạch toán phụ thuộc, chỉ là khâu phân phối sản phẩm (bán bảo hiểm) và giải quyết bồi thường trong phạm vi nhất định nào đó (tùy theo phân cấp của doanh nghiệp bảo hiểm đó), cho dù gọi là công ty hay chi nhánh thì bản chất nó chỉ là một chi nhánh vì vậy không thể được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác nhau hay có sự ưu ái cho doanh nghiệp này hay doanh nghiệp kia.

Vì vậy, tác giả xin kiến nghị sửa đổi Điều 11 Nghị định 42/CP ngày 01/8/2001 hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật kinh doanh bảo hiểm như sau:

Điều 11: Đơn vị thành viên, Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm.

1- Đơn vị thành viên hay chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo quy định của Nghị định này và được quy định trong điều lệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động của đơn vị thành viên và chi nhánh.

Đồng thời, cũng sửa đổi khoản 2 và khoản 3 của điều này quy định về việc Hồ sơ xin thành lập Đơn vị thành viên hay Chi nhánh. Không thể có ngoại lệ là các đơn vị thành viên của các Tổng Công ty thì không phải lập hồ sơ còn các doanh nghiệp cổ phần hay có vốn nước ngoài lại phải trình hồ sơ như quy định hiện hành trong khi về hình thức thì đơn vị thành viên của các Tổng Công ty lại lớn hơn cấp Chi nhánh.

Nhà nước cũng cần sớm có quy định việc cho phép các công ty trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Hiện nay theo Luật kinh doanh bảo hiểm thì các công ty trách nhiệm hữu hạn không được kinh doanh bảo hiểm (Điều 59), nhưng trước đây Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn tại Việt Nam. Điều này dẫn tới việc đã có 6 công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn đang hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay, khi Luật đầu tư nước ngoài được thay thế bằng Luật Đầu tư 2005 thì có sự vênh nhau giữa các quy định pháp luật. Vì vậy, Nhà nước cần sớm có quy định về vấn đề này.

Tương tự như vậy, trước đây theo Luật đầu tư nước ngoài thì liên doanh là một loại hình doanh nghiệp giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài (hoặc

các bên nước ngoài). Vì vậy trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ cũng có một công ty bảo hiểm liên doanh. Hiện nay, theo Luật đầu tư 2005 thì liên doanh là hình thức đầu tư chứ không còn là loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp thì việc tổ chức lại các công ty này như thế nào, khả năng duy nhất là theo hình thức cổ phần, nhưng phải có hướng dẫn của Nhà nước.

* Như đã nêu ở trên, trong thực tế áp dụng, còn tồn tại một số quy định pháp luật chưa thật phù hợp với các nguyên tắc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, gây ra khá nhiều khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong việc áp dụng trên thực tế và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Việc chỉnh sửa lại những quy định này là một yêu cầu tất yếu và cần được thực hiện một cách nhanh chóng, tăng cường tính hợp lý và hiệu quả của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này.

- Xin được quay trở lại ví dụ về một quy định bất hợp lý có liên quan đến việc giải quyết trường hợp kê khai nhầm tuổi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vừa được trình bày tại mục 3.1 của chương 3. Quy định này được xây dựng rõ ràng là thiếu sự tham khảo cần thiết về đặc trưng của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Người phải chịu thiệt thòi trước nhất khi áp dụng quy định này chính là khách hàng mua bảo hiểm (bên mua bảo hiểm). Vì vậy, việc sửa đổi quy định pháp luật này là rất cần thiết, góp phần thể hiện rõ tinh thần của pháp luật là trước hết và trên hết bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

- Bên cạnh đó, những quy định pháp luật còn chưa thống nhất trong Luật kinh doanh bảo hiểm và phù hợp với Luật gốc (Bộ luật dân sự) như quy định về việc "bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm" (khoản 2 Điều 34), hành vi "cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm" (điểm a khoản 2 Điều 19) và việc "bên mua bảo hiểm hoặc

doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm" (điểm d khoản 1 Điều 22) sẽ khiến cho các doanh nghiệp và cơ quan tố tụng lúng túng trong cách giải quyết, vì xét về bản chất thì việc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người mua bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thực chất cũng là một hành vi lừa dối, trong trường hợp bên mua bảo hiểm "cố tình" thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng cũng là một hành vi lừa dối.

Do đó, kết luận đúng đắn của các bản án phụ thuộc phần lớn vào "sự linh động" và "công tâm" của các nhà "cầm cân nảy mực"chứ không phải là đảm bảo nguyên tắc tố tụng "xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Do đó, các hậu quả pháp lý của các hành vi trên dẫn đến việc đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô hiệu trong Luật kinh doanh bảo hiểm cần được rà soát lại nhằm đảm bảo việc áp dụng các quy định được rõ ràng và chính xác.

* Về nghĩa vụ cung cấp thông tin và giải thích hợp đồng bảo hiểm

Pháp luật qui định khi giao kết hợp đồng các bên phải cung cấp thông tin cho nhau liên quan đến các nội dung, yêu cầu của hợp đồng bảo hiểm, giao kết, khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm và hậu quả pháp lý trong trường hợp các bên không thực hiện các nghĩa vụ này. Tuy nhiên, khi áp dụng các qui định này trong thực tiễn thì đòi hỏi phải có hướng dẫn giải thích rõ hơn về:

+ Các trường hợp nào thì coi là doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp sai thông tin nhằm giao kết hợp đồng?

+ Các thông tin này là những thông tin gì?

Thực tế, Luật kinh doanh bảo hiểm qui định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm các điều kiện, điều khoản bảo hiểm... nói chung là các nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Theo qui định của luật, nghĩa vụ giải thích của doanh nghiệp bảo hiểm tương ứng với

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí