Tiêu Chí Chọn Tin, Bài (Tác Phẩm Báo Chí): Sử Dụng Phương Pháp Chọn Mẫu Xây Dựng Tuần Ngẫu Nhiên (Constructed Weeks)

Về ba tờ báo:

- VnExpress.net

VnExpress là báo mạng điện tử đầu tiên tại Việt Nam không có phiên bản báo giấy, được thành lập bởi Tập đoàn FPT, ra mắt ngày 26 tháng 2 năm 2000 và được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép số 511/GP - BVHTT ngày 25 tháng 11 năm 2002.

Theo bảng xếp hạng của Alexa, VnExpress luôn có số người truy cập lớn nhất trong số hơn 10 tờ báo điện tử tại Việt Nam, và hiện nằm trong top 500 website được truy cập nhiều nhất thế giới. Google Analytics thống kê VnExpress hiện có 42 triệu lượt xem (pageviews) trung bình mỗi ngày và 24 triệu độc giả thường xuyên (unique visitor), trong đó 16% từ nước ngoài. Đây là con số ấn tượng chứng tỏ vị thế ngang tầm thế giới của VnExpress.

Báo có 18 chuyên mục chính: Thời sự, Góc nhìn, Thế giới, Kinh doanh, Giải trí, Thể thao, Pháp luật, Giáo dục, Đời sống, Du lịch, Khoa học, Số hoá, Xe, Cộng đồng, Tâm sự, Ý kiến, Video, Cười. Trong các chuyên mục còn có các tiểu mục nhỏ để đi sâu vào nhiều vấn đề khác nhau (Khảo sát tại thời điểm tháng 6/2016). Trung bình mỗi ngày, báo cập nhật khoảng 350 đầu mục tin bài, trong đó 90% là do phóng viên, biên tập viên của báo thực hiện. VnEpress được các chuyên gia đánh giá là có “thông tin nhanh nhạy, kịp thời”, “chuyên mục phong phú, hấp dẫn”, “tương tác đa chiều” và “giao diện ấn tượng” [37, 282]

Ngày 29/3/2014, VnExpress chính thức triển khai giao diện tùy ứng (responsive design) - một thiết kế giao diện duy nhất có khả năng tự động tương thích với các nền tảng thiết bị khác nhau như máy tính cá nhân, máy tính bảng và điện thoại thông minh.

- Tuổi Trẻ Online (Tuoitre.vn)

Ra mắt chính thức vào ngày 01.12.2003, Tuoitre.vn đã tham gia vào tổ hợp truyền thông đa phương tiện của nhật báo Tuổi trẻ và nhanh chóng trở thành tờ báo mạng điện tử có tốc độ phát triển nhanh, mạnh, vào top 3 trang web Tiếng Việt được nhiều người truy cập nhất chỉ sau 2 năm ra đời.

Từ ngày 2/9/2014, Tuổi Trẻ Online chính thức áp dụng giao diện tùy ứng (responsive web design), đồng thời triển khai nhiều cải tiến nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của bạn đọc. Khác biệt lớn của Tuổi trẻ Online chính là việc tận dụng khai thác tốt tính đa phương tiện của báo mạng điện tử, xây dựng phong cách chính trị - xã hội chuẩn mực mang thương hiệu “Tuổi trẻ”.

Theo bảng xếp hạng của Alexa năm 2011 Tuổi trẻ Online đứng thứ 5 trong số các báo mạng điện tử được truy cập nhiều nhất Việt Nam với hơn 4000 lượt truy

cập/ngày. Báo Tuổi trẻ có 15 chuyên mục chính: Thời sự, Thế giới, Pháp luật, Kinh doanh, Công nghệ, Giáo dục, Văn hóa, Giải trí, Nhịp sống trẻ, Nhịp sống số, Bạn đọc, Du lịch, Thể thao, Media, Cần biết (Khảo sát tại thời điểm tháng 6/2016).

- Báo điện tử Gia đình và Xã hội (Giadinh.net.vn)

Báo Gia đình và xã hội là cơ quan ngôn luận của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình. Giadinh.net.vn là tờ báo điện tử hàng đầu trong truyền thông về gia đình ở Việt Nam hiện nay, thực hiện chức năng nhiệm vụ chính trị là truyền thông, thông tin về công tác Dân số - Y tế. Báo điện tử Giadinh.net.vn chính thức ra đời năm 2007, được hoạt động theo Giấy phép Báo điện tử số: 79/GP-TTĐT ngày 20/4/2011 của Bộ TT&TT. Giadinh.net.vn mỗi ngày thu hút hơn một triệu lượt truy cập.

Song hành cùng báo điện tử Giadinh.net.vn có 7 ấn phẩm báo in của Báo Gia đình & Xã hội với tổng lượng phát hành các số báo chính mỗi năm hàng chục triệu bản. ‘‘Thời sự, Thiết thực và Hấp dẫn” là tôn chỉ mục đích của hệ thống Báo Gia đình và Xã hội. Báo điện tử giadinh.net.vn đã chính thức thay đổi giao diện vào ngày 19/9/2014, đem lại một trải nghiệm mới cho độc giả với nhiều chuyên mục hấp dẫn, cách trình bày khoa học, trực quan và dễ dàng tiếp cận, tương tác. Báo có 10 chuyên mục chính: Trang chủ, Mới nhất, Xã hội, Gia đình, Dân số, Y tế, Sống khoẻ, Giải trí, Pháp luật, Vòng tay nhân ái, Thị trường, Bốn Phương. (Khảo sát tại thời điểm tháng 6/2016).

Về các chuyên mục khảo sát:

Do lượng tin bài cập nhật trên các tờ báo trong diện khảo sát rất lớn (mỗi báo xuất bản từ 150 - 350 đầu mục tin bài trong một ngày cho tất cả các chuyên mục), nên nếu khảo sát tất cả các chuyên mục thì sẽ dẫn đến một số lượng mẫu quá lớn so với quy mô của một luận án. Chính vì thế, chúng tôi thống nhất chọn mỗi báo ba chuyên mục: Báo tuoitre.vn chọn chuyên mục Thời sự, Văn hóa Giải trí. Báo VnEpress chọn chuyên mục Thời sự, Giải trí Tâm sự. Báo giadinh.net.vn chọn chuyên mục Xã hội, Gia đình Giải trí. Chúng tôi cố gắng tìm đến điểm chung của các chuyên mục được chọn trên các báo, theo đó, ngoài chuyên mục Giải trí đều xuất hiện trên cả ba trang báo, thì chuyên mục Xã hội trên Giadinh.net.vn tập trung các tin tức mới nhất về đời sống xã hội được cập nhật liên tục, tương tự như chuyên mục Thời sự trên Tuoitre.vn và VnExpress.net. Ngoài ra, chúng tôi cũng chọn mỗi báo một chuyên mục đặc thù với giả định chuyên mục đó sẽ đề cập nhiều đến vấn đề mấu chốt của luận án là định kiến giới. Vì thế chúng tôi chọn chuyên mục Gia đình - chuyên mục tiêu biểu của Giadinh.net.vn, chuyên mục Văn hóa của tuoitre.vn với đặc trưng là các bài viết chuyên sâu, có tính chất phân tích, bình luận

chứ không chỉ tập trung vào mục đích đưa tin thuần túy; chuyên mục Tâm sự của VnExpress.net được chọn với kỳ vọng chuyên mục này sẽ thể hiện chân thực, phong phú và sinh động thực tế đời sống hôn nhân và gia đình với các câu chuyện của chính độc giả cùng lời khuyên từ chuyên gia và những chia sẻ từ chính độc giả của báo. Ngoài ra, đây cũng là các chuyên mục chính có lượng cập nhật tin bài lớn, đều đặn, thu hút sự quan tâm của độc giả nhất của các báo trong diện khảo sát.

6.3.2. Tiêu chí chọn tin, bài (tác phẩm báo chí): Sử dụng phương pháp chọn mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên (constructed weeks)

Thông thường, các nghiên cứu phân tích nội dung là bước đầu tiên trong quy trình đánh giá hai bước liên kết nội dung truyền thông với nhận thức của người xem và người đọc. Tuy nhiên, các nghiên cứu như vậy cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu xem xét các phương tiện tốt nhất có sẵn để thu thập dữ liệu dân số một cách hiệu quả và đáng tin cậy.

Lấy mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên (constructed weeks) là một loại kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng (SRS) phổ biến trong các nghiên cứu truyền thông, trong đó mẫu cuối cùng đại diện cho tất cả bảy ngày trong tuần (Jones & Carter, 1959; Stempel III, 1952) để tính toán biến thiên tuần hoàn của nội dung tin tức (Riffe, Aust, & Lacy, 1993). Theo đó, việc xây dựng một tuần từ dân số một tháng sẽ liên quan đến việc chọn một Chủ nhật từ tất cả bốn Chủ nhật trong tháng đó, một thứ Hai từ tất cả bốn thứ Hai, v.v. cho đến mỗi ngày trong tuần được trình bày trong mẫu cuối cùng. Kỹ thuật này có thể được điều chỉnh (modified) kích thước của mẫu cuối cùng cũng như cả quần thể.

Mục tiêu tổng thể của việc lấy mẫu tuần ngẫu nhiên được xây dựng là tạo ra hiệu quả lấy mẫu tối đa trong khi kiểm soát các thành tố theo chu kỳ. Quá ít đơn vị lấy mẫu có thể dẫn đến ước tính không đáng tin cậy và kết quả không hợp lệ, trong khi quá nhiều đơn vị có thể gây lãng phí tài nguyên mã hóa (Riffe et al., 1993) [155].

Một nghiên cứu ban đầu về lấy mẫu của Mintz (1949) đã sử dụng một tháng tin tức như một tập hợp và đã thu hút nhiều kích cỡ mẫu bằng nhiều phương pháp ngẫu nhiên (mỗi ngày thứ ba, cả tuần, v.v.). Kết quả cho thấy trung bình tập hợp của các mẫu được lấy mỗi ngày thứ 6 và của mỗi ngày khác (15 ngày) không thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, việc lấy mẫu của Mintz dựa trên giả định rằng số lượng tiêu đề không phải theo chu kỳ ngày trong tuần. Stempelftime (1952) đã sử dụng số lượng ảnh trên trang nhất tờ báo Wisconsin trong 6 ngày vào năm 1951 để nghiên cứu lấy mẫu và kết luận 12 ngày (hai tuần được xây dựng) là đủ để thể hiện một năm nội dung. Nghiên cứu của Davis và Turner (1951), Jones và Carter (1959) cũng đã tìm thấy kết quả tương tự.

Riffe, Aust, et al. (1993) đã tiến hành sao chép kỹ lưỡng hơn công việc Stempel (1952) khi họ tiến hành lấy mẫu từ 6 tháng của một trang tin tức lưu hành hàng ngày với 39.000 câu chuyện địa phương. Riffe, Aust, et al. (1993) so sánh hiệu quả của việc lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản, lấy mẫu tuần được xây dựng và lấy mẫu ngày liên tiếp và kết luận việc lấy mẫu tuần được xây dựng (constructed weeks) hiệu quả hơn nhiều so với lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản khi suy ra phạm vi mẫu lớn hơn. Nghiên cứu này cho thấy với đối tượng nghiên cứu là 6 tháng của một trang tin tức hàng ngày, một tuần được xây dựng có hiệu quả bằng bốn tuần và kết quả mà nó đưa ra vượt quá những gì được dự kiến dựa trên lý thuyết xác suất. Bằng cách mở rộng, hai tuần được xây dựng sẽ cho phép ước tính kết quả đáng tin cậy về nội dung các câu chuyện trên toàn bộ số báo của tờ báo trong một năm, một kết luận phù hợp với phát hiện của Stempelftime (1952). Sau đó, trong một số nghiên cứu, Riff và cộng sự của mình đã cố gắng xác định số tuần cần thiết để lấy mẫu tuần có hiệu quả cho các quần thể và phương tiện có kích thước khác nhau (Lacy, Riffe, & Randle, 1998; Lacy, Riffe, Stoddard, Martin, & Chang, 2001; Riffe, Lacy, & Fico, 2005).

Bảng 1: Phương pháp lấy mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên của Riffe, et al. (1993, 1998, 2001, 2005)

Loại nội dung

Bản chất mẫu tương ứng

Một năm báo phát hành

hàng ngày

Hai tuần xây dựng từ dữ liệu 1 năm (Chọn ngẫu nhiên

từ 2 thứ Hai, 2 thứ Ba, 2 thứ Tư…)

Một năm báo phát hành

hàng tuần

Chọn ngẫu nhiên một vấn đề từ mỗi tháng trong năm.

Một năm tin tức truyền

hình buổi tối

Chọn ngẫu nhiên hai ngày từ các bản tin của mỗi tháng

trong năm

Một năm tạp chí tin tức

Chọn ngẫu nhiên một vấn đề từ mỗi tháng trong năm

5 năm tạp chí tiêu dùng

Một năm được xây dựng (chọn ngẫu nhiên một vấn đề

từ mỗi tháng)

5 năm báo hàng ngày

Chín tuần được xây dựng (chọn ngẫu nhiên chín Thứ

Hai, chín Thứ Ba, v.v.)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Nguồn: NCS tổng hợp Cho đến nay, phương pháp chọn mẫu tuần được xây dựng (constructed weeks) đã được áp dụng phổ biến trong nghiên cứu truyền thông đại chúng và các nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác mà đối tượng khảo sát là báo chí truyền thông, đặc biệt

là các ấn phẩm phát hành theo ngày.

Từ lý thuyết này, các nhà khoa học đã nghiên cứu mở rộng để đúc kết các công thức lấy mẫu đối với các đối tượng khác như: Mạng xã hội Twitter (Hwalbin Kim,

et al. 2018, Evaluating Sampling Methods for Content Analysis of Twitter Data), Hệ thống kênh truyền thông sức khỏe quy mô lớn từ 5 năm trở lên (Douglas A. Luke et al., 2011, How Much Is Enough? New Recommendations for Using Constructed Week Sampling in Newspaper Content Analysis of Health Stories) …

Áp dụng phương pháp chọn mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên (constructed weeks) trong nghiên cứu vấn đề định kiến giới trên báo mạng điện tử Việt Nam:

Theo khảo sát của người viết, trong các nghiên cứu về nội dung truyền thông trên các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam, đặc biệt là với đối tượng BMĐT, chưa có nghiên cứu nào sử dụng phương pháp chọn mẫu constructed weeks. Có thể nghĩ tới một số nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất là ở Việt Nam, những nghiên cứu về tác động của nội dung truyền thông còn chưa nhiều và chưa có hệ thống, vì thế các nội dung truyền thông chưa được lưu trữ có hệ thống cho tất cả các ấn phẩm (Oxfam Việt Nam, 2016).

Thứ hai là BMĐT là một loại hình báo chí mới phát triển trong những năm gần đây, vì vậy cơ sở dữ liệu chưa được lưu trữ một cách đầy đủ, việc tiếp cận chúng từ nguồn dữ liệu quốc gia là không thể. Người nghiên cứu chỉ có thể trông cậy vào hệ thống dữ liệu được lưu trữ trên sever của chính các trang BMĐT đó nên việc thu thập dữ liệu phải tiến hành thủ công nhờ vào công cụ tìm kiếm theo ngày trên trang (Xem hình 2)

Hình 2: Công cụ tìm kiếm theo ngày của tuoitre.vn

Nguồn Ảnh chụp màn hình tuoitre vn Chính vì lẽ đó các nghiên cứu về nội dung 1

Nguồn: Ảnh chụp màn hình tuoitre.vn


Chính vì lẽ đó, các nghiên cứu về nội dung truyền thông ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp chọn mẫu theo từ khóa và theo chủ đề. Phương

pháp này vẫn rất hữu ích trong việc nghiên cứu một nội dung truyền thông cụ thể, ví dụ: Thông điệp về tham nhũng, Thông điệp về hôn nhân có yếu tố nước ngoài; Định kiến giới đối với lãnh đạo nữ… Nhưng đối với các nội dung bao quát hơn mà trong nó chứa đựng nhiều nội dung cụ thể thì phương pháp này tỏ ra thiếu tính thuyết phục, ví dụ như vấn đề ĐKG trên BMĐT. Việc chọn mẫu theo từ khóa sẽ không bao quát được hết lượng mẫu sẵn có cũng như không thể hiện được chính xác nội dung truyền thông cần khảo sát. Lúc này, phương pháp chọn mẫu tuần ngẫu nhiên sẽ chứng minh tính ưu việt bởi khả năng bao quát trọn vẹn đối tượng và độ chính xác đã được kiểm chứng qua các nghiên cứu về nội dung truyền thông uy tín trên thế giới trong nhiều năm qua.

Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ áp dụng phương pháp chọn mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên để thu thập đủ hai tuần ngẫu nhiên trong một năm cho mỗi tờ báo. Với phạm vi khảo sát là ba tờ báo vnexpress.net, tuoitre.vn và giadinh.net.vn trong thời gian ba năm từ tháng 01/2014 đến hết tháng 12/2016, chúng tôi sẽ có sáu tuần dữ liệu ngẫu nhiên cho mỗi báo (trong đó mỗi tuần chúng tôi khảo sát từ thứ hai đến thứ sáu, mặc định không khảo sát thứ bảy, chủ nhật), 03 báo là 18 tuần dữ liệu ngẫu nhiên. Tiến hành lựa chọn mẫu khảo sát với các tiêu chí chọn mẫu như trên theo hình thức bốc thăm ngẫu nhiên, chúng tôi thu được kết quả các ngày đăng tải qua các năm như sau:

Bảng 2: Kết quả chọn mẫu theo phương pháp constructed weeks


STT

Năm 2014

Thứ

T2

T3

T4

T5

T6

Tuần

2 - 39

23 - 24

11 - 32

3 - 47

2 - 10

Ngày

06/01/2014

03/06/2014

12/ 03/2014

16/ 01/2014

10/01/2014

22/09/2014

10/06/2014

06/08/2014

20/11/2014

07/03/2014

STT

Năm 2015

Thứ

T2

T3

T4

T5

T6

Tuần

40 - 48

7 - 43

19 - 37

32 - 47

14 - 18

Ngày

28/09/2015

10/02/2015

06/05/2015

06/08/2015

03/04/2015

23/11/2015

20/10/2015

09/09/2015

19/11/2015

01/05/2015

STT

Năm 2016

Thứ

T2

T3

T4

T5

T6

Tuần

8 - 26

11 - 30

39 - 51

23 - 44

3 - 49

Ngày

15/02/2016

08/03/2016

21/09/2016

02/06/2016

15/01/2016

20/06/2016

19/07/2016

14/12/2016

27/10/2016

02/12/2016

Nguồn: NCS tổng hợp

Trên cơ sở các đơn vị mẫu là các ngày đã được lựa chọn ngẫu nhiên theo phương pháp constrcted weeks bên trên, chúng tôi tiến hành sử dụng công cụ tìm kiếm theo ngày để liệt kê tất cả các tin bài được đăng tải trên 3 trang báo. Với 18 tuần dữ liệu ngẫu nhiên, số lượng tin bài thu được là 3039 đơn vị, con số này đủ để đảm bảo độ lớn của mẫu nghiên cứu.

Trong 3039 đơn vị tin bài, Tuoitre có số lượng tin bài ít nhất (374 tin bài, chiếm 12%), VnEpress chiếm số lượng lớn nhất (1606 tin bài, 53%), còn lại là Giadinh.net.vn (1059 tin bài, chiếm 35%). (Xem biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Tỷ lệ tin bài trong diện khảo sát

Nguồn NCS tổng hợp từ số liệu khảo sát Sự chênh lệch về số lượng mẫu 2

Nguồn: NCS tổng hợp từ số liệu khảo sát Sự chênh lệch về số lượng mẫu giữa các báo trong biểu đồ 1 cũng chính là một nhược điểm của phương pháp chọn mẫu constructed weeks đối với dữ liệu BMĐT và cũng là hạn chế của luận án khi chưa đảm bảo sự đầy đủ và cân đối giữa các đơn vị chọn mẫu. Thời điểm chúng tôi lấy mẫu, khá nhiều dữ liệu tìm kiếm theo ngày trên BMĐT tuoitre.vn bị lỗi không hiển thị tin bài (xem hình 3). Chính vì vậy, số lượng tin bài trên báo tuoitre.vn ít hơn hẳn so với hai báo còn lại. Việc phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống sever lưu trữ của các cơ quan báo chí mà không có nguồn lưu trữ quốc gia chính là thách thức đối với các nhà nghiên cứu khi chọn đối tượng BMĐT. Tuy nhiên, xét trên tổng thể dữ liệu với 3039 tác phẩm báo chí trên ba trang báo mạng điện tử, chúng tôi cho rằng đã đảm bảo độ lớn của mẫu nghiên cứu.

Hình 3: Dữ liệu tìm kiếm theo ngày của tuoitre.vn không hiển thị

Nguồn Ảnh chụp màn hình tuoitre vn Thao tác tiếp theo sẽ là đối chiếu với 3

Nguồn: Ảnh chụp màn hình tuoitre.vn


Thao tác tiếp theo sẽ là đối chiếu với bảng công cụ phân tích nội dung là một bảng code gồm 32 câu hỏi chia làm ba phần: Phần một bao gồm các thông tin cơ bản về các bài báo như thể loại, ấn phẩm, chuyên mục… Phần hai là quan sát và thống kê các vấn đề liên quan đến biểu hiện định kiến giới trong nội dung của tác phẩm như: Các nhân vật nữ và nam giới thường được phỏng vấn/ đề cập/ xuất hiện trong những chủ đề gì? Đặc điểm, vị thế, vai trò, năng lực của nam và nữ được phản ánh như thế nào trong các bản tin? Phần ba là các thông tin biểu hiện định kiến giới trong hình thức thể hiện của tin bài như: Tần suất, Chuyên mục, Thể loại, Hình ảnh, Ngôn ngữ… Việc xử lí dữ liệu được tiến hành chi tiết bằng phần mềm SPSS sẽ cho ra kết quả khách quan, đảm báo tính khoa học.

7. Điểm mới của luận án

- Về mặt lí luận: Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về định kiến giới trên truyền thông và truyền thông thúc đẩy BĐG trên BMĐT, góp phần tạo dựng phương pháp luận về nghiên cứu một vấn đề xã hội cụ thể trên báo chí - truyền thông; chỉ ra và phân tích chi tiết những biểu hiện của ĐKG trên cả hai phương diện nội dung và hình thức tác phẩm BMĐT bằng phương pháp phân tích nội dung tin tức; chỉ ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp với các tổ chức, cá nhân liên quan, đề ra các tiêu chí về tin bài không có ĐKG nhằm hạn chế tình trạng ĐKG trên BMĐT Việt Nam.

- Về mặt thực tiễn: Công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành, góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về mặt phương pháp trong nghiên cứu báo chí - truyền thông về giới từ góc độ phân tích nội dung tin tức; góp phần làm phong phú thêm cho lĩnh vực nghiên cứu nội dung báo chí truyền thông, truyền thông về giới,

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 17/09/2024