Hướng Nghiên Cứu Về Bình Đẳng Giới, Định Kiến Giới Trên Truyền Thông Đại Chúng Nói Chung, Báo Mạng Điện Tử Nói Riêng.

Các nhà nghiên cứu Lasswell, Lemer và Pool trong “The Comparative Study of Symbol: An Introduction” (Đại cương về nghiên cứu so sánh biểu tượng) (1952) cho rằng phân tích nội dung là kỹ thuật nhằm mô tả với mức độ khách quan cao nhất, rõ ràng nhất, chính xác nhất những thông điệp được đề cập trong một thời gian và không gian nhất định. Tác giả Arthur Asa Berger với “Media research techniques” (Các kỹ thuật nghiên cứu truyền thông) (1982) [140] cũng cho rằng phân tích nội dung văn bản báo chí là kỹ thuật nghiên cứu hướng tới việc cân đo số lượng những nội dung nhất định trong một mẫu nghiên cứu mang tính đại diện phản ánh nội dung cơ bản của truyền thông.

Trong cuốn sách The Content Analysis Guidebook (Sách hướng dẫn phân tích nội dung - tái bản lần thứ hai năm 2017) [167], Kimberley Neuendorf, chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy về phân tích nội dung phương tiện truyền thông (Đại học bang Cleveland) cho rằng: phân tích nội dung là sự tổng kết, phân tích định lượng thông điệp dựa trên các phương pháp khoa học không chỉ giới hạn về biến số được đo lường mà còn cần phải dựa vào bối cảnh mà các thông điệp đó được hình thành. Nhà nghiên cứu lập luận rằng phân tích nội dung phương tiện truyền thông là nghiên cứu định lượng, nhưng lại chủ trương chú ý đến tính khách quan, tính liên kết, độ tin cậy, tính hiệu lực, khả năng khái quát và các giả thuyết thử nghiệm; đồng thời cũng chú ý đến phân tích tu từ, phân tích tường thuật, phân tích diễn ngôn, cấu trúc hay diễn giải... Neuendorf kết luận có bốn yếu tố chính chỉ ra vai trò của phân tích nội dung là: mô tả, suy luận, tâm lý và dự đoán, trong đó yếu tố tâm lý phù hợp với phân tích nội dung chuyên ngành y học và phân tâm học, còn lại ba phương pháp mô tả, suy luận và dự đoán ứng dụng được với các chuyên ngành khác nhau. Vai trò đầu tiên và cơ bản nhất của mô tả là cung cấp cái nhìn sâu hơn vào các thông điệp truyền thông, còn vai trò của suy luận và dự đoán cho phép các nhà nghiên cứu có thể đi xa hơn, khám phá những gì mà nội dung truyền thông nói về xã hội và những tác động của truyền thông đến công chúng.

Riffe, D., Lacy, S., & Fico, F. (2005) nổi tiếng với công trình được tái bản hai lần Analyzing media messages: Using quantitative content analysis in research (Phân tích thông điệp truyền thông: Sử dụng phân tích nội dung định lượng trong nghiên cứu) [156]. Cuốn sách gồm chín chương đã cung cấp cái nhìn tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu truyền thông đại chúng, nhấn mạnh tính trung tâm của phân tích nội dung đối với lĩnh vực này và khả năng ứng dụng của nó trong các

ngành khác, phát triển một định nghĩa chính thức về phân tích nội dung, kiểm tra các thuật ngữ của nó để đưa ra các nguyên tắc quan trọng trong đo lường, phân tích dữ liệu và suy luận. Chương ba của cuốn sách (Designing a Content Analysis) mô tả các bước liên quan đến việc thiết kế nghiên cứu, kết thúc bằng một loạt câu hỏi cung cấp mô hình để tiến hành phân tích nội dung định lượng. Sáu chương còn lại tập trung vào các vấn đề nghiên cứu sâu hơn, bao gồm đo lường để tìm các đơn vị nội dung phù hợp và xây dựng các quy tắc để gán các đơn vị đó cho các danh mục (Measurement); lấy mẫu đảm bảo độ tin cậy (Sampling, Reliability); phân tích dữ liệu, áp dụng các kỹ thuật thống kê phù hợp (Data Analysis); tính hợp lệ giữa lý thuyết và thực tiễn của kết quả nghiên cứu (Validity); và việc sử dụng công nghệ máy tính trong phân tích nội dung (Computer). Tác giả luận án đã áp dụng phương pháp lấy mẫu tuần ngẫu nhiên (constructed weeks) của Riff, D., Lacy trong nghiên cứu của mình nhằm đảm bảo chọn được lượng mẫu đủ độ tin cậy nhất để tiến hành các phân tích định lượng. Theo đó, hai tuần báo ngẫu nhiên được chọn từ một năm của một tờ báo hàng ngày được Riff và cộng sự chứng minh đủ độ tin cậy để mô tả câu chuyện một năm của tờ báo đó. Đây cũng là phương pháp chọn mẫu được coi là lý tưởng trong nghiên cứu định lượng trên truyền thông và được các nhà nghiên cứu truyền thông trên thế giới áp dụng nhiều năm qua.

Nghiên cứu định tính là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi của con người và của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu. Là quá trình tìm kiếm các tri thức được khái quát hóa để có thể áp dụng vào việc giải thích cho các hiện tượng, nghiên cứu định tính cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi trường xã hội nơi nghiên cứu được tiến hành và đời sống xã hội được nhìn nhận như một chuỗi các sự kiện liên kết chặt chẽ với nhau cần được mô tả một cách đầy đủ để phản ánh được cuộc sống thực tế hàng ngày. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và có tính biện chứng, phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó. Trong nghiên cứu định tính, một số câu hỏi nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin được chuẩn bị trước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp khi những thông tin mới xuất hiện trong quá trình thu thập.

Chris Newbold trong “The media book” (2002) cho rằng tiếp cận định tính sẽ có giá trị trong việc khám phá ý nghĩa của ngôn từ, tìm hiểu những lớp ý nghĩa

sâu sắc, hướng tới tìm hiểu đặc điểm của nhóm công chúng, quan điểm và uy tín của nguồn phát, tới các yếu tố thuộc về hoàn cảnh chứ không đơn thuần chỉ là văn bản và tần suất các vấn đề được đề cập. Newbold lưu ý rằng phân tích định lượng không thể nắm bắt được bối cảnh của truyền thông mà ở đó ý nghĩa của văn bản được hình thành, định lượng chỉ chú ý đến số lượng hay về cường độ, mức độ tác động vào xã hội, chứ không biểu hiện được mối quan hệ giữa văn bản và nguồn phát. Phân tích định tính không được đánh giá cao bởi các nhà nghiên cứu thực chứng, nhưng lại được ủng hộ mạnh mẽ bởi các nhà nghiên cứu nữ quyền và các nghiên cứu phân tích diễn giải. Như vậy, nghiên cứu định tính được tiến hành trên cơ sở của phân tích diễn ngôn, phân tích văn bản và các kỹ thuật sử dụng từ ngữ nghĩa học, giải thích các biểu tượng, dấu hiệu và ý nghĩa của văn bản. Điều này nhắc các nhà phân tích phương tiện truyền thông cần nắm chắc về phương pháp phân tích nội dung, các quy tắc nghiên cứu, đồng thời am hiểu các lĩnh vực ký hiệu học, ngôn ngữ... để giảm thiểu kết quả suy luận mang tính chủ quan.

Ngày nay nhiều nhà khoa học đã tiếp cận nghiên cứu dựa trên sự kết hợp giữa phân tích định tính và định lượng, đây được coi là phương pháp kết hợp tối ưu đối với các nghiên cứu phân tích nội dung văn bản báo chí - truyền thông, bởi lẽ phân tích định lượng hướng tới trả lời cho “cái gì?”, “bao nhiêu”, còn phân tích định tính trả lời cho câu hỏi “như thế nào?” nhằm diễn giải nội dung văn bản. Phân tích định lượng cho kết quả đáng tin cậy, có tính khoa học cao; phân tích định tính là việc cần thiết để hiểu sâu hơn lớp ý nghĩa văn bản truyền thông mà trong đó thể hiện ý định, mục đích của nhà truyền thông và bối cảnh thông điệp hình thành, đó là cách tiếp cận lý tưởng để phân tích nội dung tin tức.

Trong những năm gần đây có rất nhiều công trình tiến hành nghiên cứu theo phương pháp phân tích nội dung theo hướng thực nghiệm như công trình Disasters in the media: A content analysis of the March 2011 Japan Earthquake/tsunami and Nuclear disasters (Phân tích nội dung động đất/sóng thần và thảm họa hạt nhân vào tháng 3/2011 tại Nhật Bản), công trình nghiên cứu của Danielle R.Stomberg - Khoa Báo chí và Kỹ thuật truyền thông, Trường Đại học bang Colorado Mỹ. Tác giả đã tiến hành phân tích nội dung các bài báo viết về thảm họa động đất/sóng thần, thảm họa hạt nhân xảy ra ở Nhật Bản được phát hành trên hai tờ báo trực tuyến lớn đại diện cho hai quốc gia là Báo NYtime.com - Hoa Kỳ và Báo Yomiuri Shimbun - Nhật Bản, nhằm trả lời cho câu hỏi: Văn hóa có ảnh hưởng đến khung truyền thông tin tức về thảm họa hay không? Thông qua đó, tác giả so sánh và giải thích những hiệu ứng

mà nền văn hóa của mỗi nước có thể ảnh hưởng đến mục tiêu truyền thông của mỗi báo về hiện tượng này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Tác giả Jennifer Manganello thuộc Trường Sức khỏe cộng đồng - Albany có nhiều công trình về phân tích nội dung văn bản báo chí - truyền thông như: A content analysis of food advertisements appearing in parenting magazines (2012) (Phân tích nội dung quảng cáo thực phẩm dinh dưỡng đăng tải trên các tạp chí làm cha mẹ); A study of quantitative content analysis of health messages in u.s media from 1985 to 2005 (Phân tích nội dung định lượng thông điệp về sức khỏe trên các phương tiện truyền thông của Mỹ từ 1985-2005); Providing health messages to Hispanics/Latinos: Understanding the importance of language and trust in health information sources (Cung cấp các thông điệp sức khỏe cho người Tây Ban Nha / Mỹ La Tinh: Hiểu được tầm quan trọng của ngôn ngữ và tin tưởng vào các nguồn thông tin y tế). Đây là các công trình nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nội dung văn bản có tính thực tế cao, nhà nghiên cứu hướng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực truyền thông với sức khỏe, y tế cộng đồng, thông qua nghiên cứu thông điệp truyền thông, hiệu ứng truyền thông ảnh hưởng tới thái độ, hành vi đối với tầng lớp thanh thiếu niên và các bậc cha mẹ.

Với mục tiêu tăng cường chất lượng báo chí thông qua phân tích nội dung, nghiên cứu Content analysis: Measuring the success of journalism capacity building (Phân tích nội dung: Đo lường sự thành công về xây dựng năng lực báo chí) của tác giả Christoph spurk và Jan Lublinski (2014) cho rằng các tổ chức truyền thông hiện nay đang cố gắng cải thiện chất lượng nội dung tin bài của các nhà báo, và họ đã tiến hành bằng nhiều cách tiếp cận khác như sử dụng tư vấn, đào tạo... nhưng rất khó để đánh giá chất lượng năng lực của nhà báo cũng như chất lượng của phương tiện truyền thông. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đã thông qua việc phân tích nội dung các sản phẩm báo chí với lập luận rằng mỗi bài báo có thể xác định rõ ràng các bộ phận trong một tác phẩm như nội dung văn bản, âm thanh, hình ảnh, video... tồn tại độc lập gắn kết chặt chẽ để tổng hòa nên một tác phẩm, do đó để xác định chất lượng tác phẩm báo chí cần phải mô tả, phân tích về chất lượng của từng bộ phận làm nên tác phẩm báo chí.

Định kiến giới trên báo mạng điện tử Việt Nam Khảo sát báo mạng điện tử Tuoitre.vn, Vnexpress.net, Giadinh.net.vn từ tháng 01-2014 đến tháng 12-2016 - 5

Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu mang tính phương pháp, chỉ ra cách thức tiến hành phân tích nội dung định tính trên báo chí truyền thông như thế nào, đồng thời chỉ ra vai trò, cũng như ảnh hưởng hay tác động của nội dung văn bản báo chí truyền thông tới công chúng.

Công trình Quantitative Content Analysic - Theoretical Foundation, Basic Procedures and Software Solution (Phân tích nội dung định tính - Lý thuyết nền tảng, phương pháp cơ bản và giải pháp mềm) của tác giả Philipp Mayring, Klagenfurt, Austria (2014) [175] đã giới thiệu tổng quan về phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, về các nguyên tắc, quy tắc, phương pháp và cách thức cơ bản trong nghiên cứu định tính; tổng quan về phương pháp tiếp cận phân tích văn bản trong khoa học xã hội, đặc biệt là phân tích nội dung định lượng trong khoa học truyền thông.

Cuốn Mediating the Message - Theories of Influences on Mass Media Content (Truyền tải thông điệp - Các lý thuyết về ảnh hưởng của nội dung truyền thông đại chúng) của tác giả Pamela J. Shoemaker (Syracuse University) và Stephen D. Reese (University of Texas, Austin) (1991) bao gồm 11 chương, là công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nội dung truyền thông trên các phương tiện TTĐC. Theo đó, các phương tiện TTĐC không chỉ đơn giản là phản ánh thế giới xung quanh, mà nội dung thông điệp được truyền tải trên các phương tiện TTĐC có thể định hình, gây ảnh hưởng, hạn chế hay khuyến khích đối với một số lượng lớn công chúng, tác động đến thái độ, tư tưởng, giá trị, và niềm tin, đồng thời định hướng các giá trị đó đối với cá nhân và tổ chức.

Các công trình nghiên cứu về mặt phương pháp đều chỉ ra quy trình phân tích nội dung văn bản báo chí - truyền thông này được thực hiện theo các bước nhất định: Bước một là xác định vấn đề nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, xây dựng giả thuyết, câu hỏi và các biến số nghiên cứu; bước hai là chọn mẫu nghiên cứu; bước ba là xây dựng bảng mã nghiên cứu; bước bốn là mã hoá và phân tích số liệu nghiên cứu; bước năm là viết báo cáo phân tích.

Như vậy, phương pháp phân tích nội dung văn bản báo chí truyền thông là một phương pháp được ứng dụng lâu đời trong lịch sử nghiên cứu báo chí truyền thông. Mục đích của việc phân tích văn bản là để mô tả nội dung, cấu trúc, chức năng của thông điệp chứa đựng trong đó. Những công trình này đã giúp tác giả luận án có được cái nhìn tổng quan về lịch sử và phương pháp, cũng như cách thức tiến hành phân tích nội dung tin tức, để từ đó áp dụng vào phân tích vấn đề định kiến giới trên BMĐT.

2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về truyền thông đại chúng nói chung và báo chí nói riêng được xem xét ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau: lịch sử truyền thông,

văn hóa truyền thông, đạo đức truyền thông, kinh tế truyền thông…, trong đó nghiên cứu nội dung truyền thông là một hướng nghiên cứu cơ bản, xuyên suốt, có vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống nghiên cứu lý luận và thực tiễn báo chí - truyền thông hiện nay. Có thể kể đến các công trình có tính lý luận, là cơ sở cho việc tiếp cận với khái niệm, định nghĩa, vị trí và ý nghĩa của nội dung tin tức của các tác giả: Tạ Ngọc Tấn - Truyền thông đại chúng (2001) [123], Nguyễn Văn Dững - Cơ sở lý luận báo chí (2013) [26], Nguyễn Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng - Truyền thông Lý thuyết và Kỹ năng cơ bản (2012) [28], Đỗ Thị Thu Hằng - Giáo trình Lý thuyết truyền thông hiện đại (2014) [53], Tâm lý học ứng dụng trong nghề báo (2013) [54]... Các công trình nghiên cứu này đã giúp cho tác giả luận án có được kiến thức tổng quan về truyền thông, tiếp cận được các khái niệm, định nghĩa, các yếu tố cấu thành cũng như vị trí, vai trò của nội dung tin tức trong tác phẩm báo chí nói riêng và trong toàn bộ quy trình truyền thông nói chung. Các nghiên cứu cho rằng truyền thông là một quá trình diễn ra theo trình tự thời gian, trong đó bao gồm các yếu tố tham dự chính là: Nguồn, Thông điệp, Kênh truyền thông, Người nhận, Phản hồi/Hiệu quả, Nhiễu.

Các nghiên cứu đóng góp cơ sở lý luận cho việc phân tích nội dung xã hội học TTĐC đầu tiên ở Việt Nam là các công trình của tác giả Mai Quỳnh Nam: “Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội” [89]; uVăn hóa đại chúng và văn hóa gia đình” [92]; “Về đặc điểm và tính chất của giao tiếp đại chúng” [91], “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng" [93]… Các công trình đã tập trung nhấn mạnh đến các đặc điểm của TTĐC, quan điểm, lập trường của các nhà xã hội học trên thế giới về TTĐC, các hướng nghiên cứu cơ bản của xã hội học TTĐC.

Bên cạnh các nghiên cứu lý luận, còn có một số công trình nghiên cứu thực nghiệm sử dụng phương pháp phân tích nội dung tin tức để đánh giá, luận giải và tìm ra các giải pháp cho thực tiễn đặt ra trong hoạt động báo chí như:

Công trình nghiên cứu “Khảo sát các kênh truyền thông hiện có và tác động của chúng đối với phụ nữ, trẻ em Việt Nam” (1999) [90], được thực hiện bởi sự phối hợp giữa Viện Xã hội học và UNICEF, do Mai Quỳnh Nam làm chủ nhiệm. Công trình này sử dụng phương pháp phân tích nội dung, đặc biệt là phương pháp phân tích diễn ngôn để phân tích tác động của các kênh truyền thông đối với phụ nữ và trẻ em thông qua nội dung tin tức.

Nghiên cứu của khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền về “Định kiến giới trong các sản phẩm truyền thông trên các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay” (2011) tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh và nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm và phân tích các vấn đề giới, định kiến giới, khuôn mẫu giới trong thông điệp truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng qua hình ảnh minh họa và ngôn từ được sử dụng. [75]

Với chủ đề về đồng tính, luyến ái, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường phối hợp cộng tác với Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tiến hành nghiên cứu: “Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên một số báo in và báo mạng(2011) [138]. Trên cơ sở tập hợp 502 bài báo về người đồng tính và các vấn đề liên quan đến đồng tính đăng trên 4 báo in và 6 báo mạng đăng tải vào các năm 2004, 2006 và 2 quý đầu năm 2008, nhóm tác giả đã đưa ra các phát hiện chính về nội dung thông điệp, bao gồm: Chân dung người đồng tính với các đặc điểm về đời sống tình dục, nhân cách, đạo đức, nhu cầu cá nhân cũng như các quan hệ xã hội; Các cách thức đưa tin sai lệch dẫn tới hiểu lầm, làm méo mó hình ảnh người đồng tính trong nhận thức của công chúng, trong đó việc sử dụng ngôn ngữ định kiến và cách khắc họa chân dung theo khuôn mẫu giới là những yếu tố cơ bản khiến cho mức độ kì thị trong các bài viết về người đồng tính khá cao.

Công trình Báo điện tử với việc đưa tin về bạo lực gia đình của tác giả Phạm Hương Trà (2013) [131] tìm hiểu thực trạng đưa tin của báo điện tử về bạo lực gia đình thông qua việc phân tích nội dung các bài viết về bạo lực trên các báo mạng điện tử, từ đó khuyến nghị nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền thông về bạo lực gia đình với các cơ quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí, phóng viên trong quá trình xây dựng tin bài.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu cho thấy hướng phân tích nội dung văn bản báo chí truyền thông phần lớn được triển khai trong phạm vi nghiên cứu ở các kênh truyền là báo in và truyền hình, đối với kênh báo mạng điện tử vẫn còn chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Một điều không thể phủ nhận rằng trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, báo mạng điện tử là phương tiện truyền thông có phạm vi tác động rất lớn đến mọi đối tượng công chúng trên toàn thế giới. Do đó, việc truyền tải nội dung gì, đích của thông điệp đó ra sao, cách thức như thế nào trên kênh truyền cần được xem xét thận trọng nhằm định hướng nhận thức, định hướng dư luận, góp phần hạn chế những hành vi lệch chuẩn trong xã hội. Để đạt được điều này, việc nghiên cứu nội dung tin tức trên báo chí truyền thông nói chung và

BMĐT nói riêng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu theo hướng này ở Việt Nam hiện chưa được chú ý nhiều, đặc biệt là các nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí học.

Các công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận nội dung tin tức báo chí - truyền thông nói trên đã giúp cho tác giả luận án tiếp cận với các tri thức khoa học của lý thuyết truyền thông, xác định được vị trí và vai trò quan trọng của mỗi yếu tố trong nội dung tin tức cũng như trong chu trình truyền thông. Đồng thời các nghiên cứu cũng giúp cho tác giả luận án nắm vững phương pháp phân tích nội dung văn bản báo chí, cung cấp một hệ thống các lý luận và bằng chứng thực tiễn về sự hình thành và phát triển của phương pháp phân tích nội dung tin tức, tạo điều kiện cho việc hình thành tư duy logic về phương pháp, cách thức phân tích nội dung tin tức, lý giải được ý nghĩa của các thông điệp đưa ra trên cơ sở mục tiêu của các tổ chức truyền thông, thấy được động cơ, mục đích của nhà truyền thông đối với các sự kiện xã hội được phản ánh qua báo chí.

3. Hướng nghiên cứu về bình đẳng giới, định kiến giới trên truyền thông đại chúng nói chung, báo mạng điện tử nói riêng.

3.1. Nghiên cứu trên thế giới

Các nghiên cứu về giới và truyền thông tập trung theo quan điểm của Theodor Adorbo cho rằng sức mạnh của thông tin đại chúng đối với công chúng rất lớn, hình ảnh trên truyền thông có sức mạnh chi phối và thay đổi hành vi của con người (dẫn theo David Gauntlett, 2002) [149,19]. Theo quan điểm này khi nghiên cứu sự xuất hiện hình ảnh về giới trên truyền thông, tác giả Gauntlett đưa ra kết luận: Trong quá khứ, TTĐC thường rập khuôn trong sự trình bày các vai trò giới. Ngày nay sự thể hiện về giới đã đa dạng hơn và bớt đi tính khuôn mẫu. Phụ nữ và nam giới nhìn chung đã bình đẳng hơn trên tivi và phim ảnh cho dù các nhân vật nam có thể vẫn ở địa vị lãnh đạo [149, 90]. Một nghiên cứu khác của Margaret Gallagher (2005) cũng chỉ ra rằng: Qua lăng kính của truyền thông, vai trò xã hội cũng như vai trò nghề nghiệp của nam và nữ bị phân biệt rõ ràng, đó là mỗi khi phụ nữ xuất hiện thì họ như bị gắn với công việc nhà và hiếm khi xuất hiện như những người năng động, quyết đoán và có lý trí, còn nam giới thì được khắc họa gần như tuyệt đối là người thực hiện các công việc quan trọng trong xã hội: dự họp và lãnh đạo [dẫn theo 78, 434]. Trong một nghiên cứu từ năm 1990, Irving Lori M. đã chỉ ra: TTĐC đưa tin về người mẫu có thể khiến cho phụ nữ cảm thấy mặc cảm về cơ thể, thiếu tự tin về bản thân. Không những

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 17/09/2024