Diện Và Hàng Thừa Kế Theo Quy Định Của Một Số Nước Trên Thế Giới 117835

liệt kê vào hàng thừa kế của người chết, diện thừa kế vì thế cũng ngày càng rộng ra. Diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản lúc này được xác định trên ba mối quan hệ với người để lại di sản.

- Những người có quan hệ hôn nhân với người để lại di sản;

- Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản;

- Những người có mối quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.

Khi Sắc lệnh số 97 ra đời ngay tại Điều 10, Điều 11 của Sắc lệnh đã chỉ rõ diện thừa kế theo pháp luật bao gồm con, cháu, vợ, chồng của người để lại di sản. Quy định này của Sắc lệnh 97 đã khẳng định một cách chắc chắn rằng người vợ, người chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Sắc lệnh đã đặt đúng vị trí của quan hệ hôn nhân, gắn kết tình yêu thương, bổn phận, trách nhiệm giữa vợ chồng với nhau. Đến BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đều ghi nhận vợ, chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Điều này càng khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ mà các bản Hiến pháp đã ghi nhận. Khi xác lập quan hệ vợ chồng là đã góp phần tạo nên một gia đình, một tế bào của xã hội, họ phải có bổn phận chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau cùng tạo nên một gia đình hạnh phúc. Người vợ là người sống suốt cuộc đời với người chồng, chia sẻ, thương yêu, chăm chút, động viên người chồng thì không thể chỉ quy định một sự bất bình đẳng rằng chỉ người chồng là người có quyền sở hữu khối tài sản của vợ chồng tạo lập ra mà người vợ lại chỉ được hưởng hoa lợi, lợi tức từ di sản người chồng để lại. Thiết nghĩ, với những quy định của pháp luật hiện hành, đặt quan hệ hôn nhân vào diện thừa kế mang một ý nghĩa thiết thực và hoàn toàn đúng đắn.

Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với người thừa kế là căn cứ để xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, những người có một trong ba mối quan hệ với người để lại di sản phải là những người nằm trong phạm vi mà pháp luật hạn

định. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thì pháp luật chỉ giới hạn những người nằm trong phạm vi bốn đời trực hệ hoặc phạm vi hai đời bàng hệ. Những người được khoanh vùng phạm vi diện thừa kế cũng không phải tất cả đều được hưởng thừa kế của người chết. Trong số những người hưởng thừa kế theo pháp luật chỉ có một số người được hưởng di sản của người chết mà thôi vì không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều có quan hệ gần gũi như nhau với người để lại di sản.

Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Pháp luật xác định diện những người thừa kế dựa trên ba mối quan hệ: Hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng giữa những người đó với người để lại di sản đồng thời xác định việc những người này được hưởng di sản dựa vào trình tự bắt đầu từ những mối quan hệ gần gũi nhất giữa họ với người để lại di sản.

1.2.2. Khái niệm hàng thừa kế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Sau khi xác định phạm vi những người có quyền thừa kế theo pháp luật dựa trên ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản. Theo mức độ quan hệ thân thuộc với người để lại di sản pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế ra thành các hàng thừa kế. Những người ở cùng một hàng thừa kế là những người có mối quan hệ thân thuộc, gần gũi với người thừa kế như nhau. Chính vì vậy những người ở cùng một hàng thừa kế sẽ được hưởng di sản mà người chết để lại ngang bằng nhau, những người ở

hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản khi hàng thừa kế trước không còn ai do đã chết, không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối hưởng di sản. Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế theo pháp luật được sắp xếp theo ba hàng thừa kế sau đây:

Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 - 4

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.

Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. [6]

Mỗi một hàng thừa kế đều được sắp xếp dựa trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.

Tóm lại, với những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế có thể nói nó là những bước tiến vượt bậc trong trình độ lập pháp của nước ta. Ba hàng thừa kế đều hội đủ phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Những quy định này đã bảo vệ được các quyền cũng như lợi ích chính đáng của những người thân thuộc với người thừa kế, nó hoàn toàn phù hợp với đời sống hiện tại và truyền thống của dân tộc ta.

1.3. Diện và hàng thừa kế theo quy định của một số nước trên thế giới

1.3.1. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Nhật Bản

Bộ luật Dân sự Nhật Bản bắt đầu được soạn thảo từ năm đầu tiên của triều Đại Meyji (1868 - 1912) và có hiệu lực từ năm 1889. BLDS Nhật Bản bao gồm các quy định về quyền tài sản, nghĩa vụ hôn nhân và gia đình và thừa kế" [39, tr.81].

Thứ nhất, là qui định về hàng thừa kế: Bộ luật dân sự Nhật Bản qui định về hàng và bậc thừa kế ưu tiên hưởng di sản theo quan hệ huyết thống trực hệ bề dưới, trực hệ bề trên rồi mới đến bàng hệ. Điều 887 BLDS Nhật bản đã nêu rõ con của người để lại di sản là người thừa kế ngoài ra theo điều này còn nói rõ nếu con của người để lại di sản chết trước, bị mất quyền thừa kế trước thời điểm mở thừa kế do bị rơi vào các qui định ở Điều 891 (Qui định về những người không được hưởng thừa kế) hoặc do quyết định của tòa án thì con cái của người đó được hưởng thừa kế thay. Qui định này có điểm tương đồng với qui định về thừa kế thế vị ở nước ta là con được hưởng di sản thừa kế thế vị khi cha mẹ của con chết trước hoặc cùng thời điểm với ông bà, nhưng cũng có điểm khác là đối với những người không được quyền hưởng thừa kế thì con cháu của người đó vẫn được hưởng. Như vậy, tổng hợp từ hai điều luật Điều 887 và Điều 888 BLDS Nhật Bản ta có thể xác định được hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Nhật Bản:

Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Con (cháu) trực hệ. Hàng thừa kế này được quy định mang tính chất theo bậc và được thể hiện trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản hoặc người con đó bị mất quyền hưởng di sản trước thời điểm mở thừa kế, thì con (cháu) của người đó sẽ là người thừa kế trong hàng [7].

Hàng thừa kế thứ hai bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên, với điều kiện giữa những người đứng ở mức độ khác nhau trong mối quan hệ huyết thống, thì người nào gần hơn sẽ được ưu tiên hưởng di sản.

Hàng thừa kế thứ ba gồm anh, chị, em ruột của người để lại di sản

Thứ hai, là về mối quan hệ hôn nhân.Khác với luật Việt Nam, trong BLDS Nhật Bản ta có thể thấy rõ vợ(chồng) của người chết không được liệt vào hàng nào trong ba hàng thừa kế nêu trên. Theo Điều 890 BLDS Nhật bản: “Vợ chồng của người để lại thừa kế trở thành người thừa kế trong mọi trường hợp”. Trong trường hợp có bất cứ người nào trở thành người thừa kế phù hợp với các qui định của ba điều trên thì trật tự thừa kế của vợ (chồng) sẽ ngang hàng với người đó. Theo điều này thì nếu người thừa kế là các con của người chết thì người vợ (chồng) sẽ được tính là người thừa kế cùng hàng các con. Nếu người chết không có con thì vợ (chồng) sẽ được tính cùng hàng với những người thân trực hệ theo qui định hoặc cùng hàng với anh chị em ruột.

Thứ ba, là sự khác biệt về qui định về chia thừa kế giữa những người cùng hàng. Ở Việt Nam những người cùng hàng được chia di sản ngang bằng nhau nhưng theo Điều 900 BLDS Nhật Bản thì việc chia thừa kế cùng hàng nếu có từ hai người thừa kế cùng hàng trở lên sẽ được qui định như sau: Khi vợ chồng, con cái là những người thừa kế cùng hàng thì vợ chồng được 1/3, con cái được 2/3. Khi vợ chồng và người thân trực hệ phía dưới là người thừa kế thì mỗi người được một nửa. Khi vợ chồng và anh chị em ruột là người thừa kế thì vợ chồng được 2/3 còn anh chị em ruột được 1/3. Nếu có nhiều con cái hoặc người thân trực hệ bề trên hoặc nhiều anh chị em ruột thì các phần chia thừa kế sẽ bằng nhau.

Ngoài ra, pháp luật còn quy định phân biệt phần của con không hợp pháp chỉ bằng 1/2 phần được hưởng của anh, chị, em cùng cha mẹ đối với người để lại di sản.

Như vậy, ta có thể thấy rõ dù trong bất kì trường hợp nào nếu người vợ chồng còn sống thì họ sẽ được nhận một phần tài sản tương đối lớn so với những người khác. Chứng tỏ pháp luật Nhật Bản coi trọng mối quan hệ hôn

nhân hơn Việt Nam rất nhiều điều này khiến cho mối quan hệ vợ chồng càng trở nên thiêng liêng, gắn bó hơn khi nó ràng buộc chặt chẽ vào quan hệ thừa kế.

Cũng theo Điều 900 này thì phần của con không hợp pháp sẽ bằng ½ phần của con hợp pháp; Anh chị em cùng cha khác mẹ cùng mẹ khác cha sẽ bằng ½ anh chị em cùng cha cùng mẹ đối với người thừa kế. Đây cũng là một điểm đáng lưu ý vì theo luật Việt Nam chỉ có anh chị em ruột được quyền hưởng thừa kế của nhau, anh chị em nuôi dù hợp pháp cũng không được hưởng. Anh chị em ngoài giá thú dù không hợp pháp theo pháp luật vẫn được hưởng thừa kế phần di sản của cha mẹ bằng nhau.

1.3.2. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Pháp

BLDS Pháp hay còn gọi là Bộ luật Napoleon được ban hành năm 1804, gồm 2283 điều, được chia thành 3 quyển, trong đó phần thừa kế được quy định trong quyển 3, từ Điều 718 đến Điều 892 và chia thành 6 chương.

Bộ luật dân sự cộng hoà Pháp, một trong những bộ luật dân sự nổi tiếng trên thế giới qui định về người thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống giữa người thừa kế và người để lại di sản: Trước hết di sản được truyền cho những người bề dưới không phân biệt độ tuổi, giới tính và không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được hưởng thừa kế. Nếu như không có những người thừa kế trực hệ phía dưới thì những người thừa kế trực hệ phía trên sẽ thừa kế di sản theo nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn và mỗi người hưởng một suất bằng nhau:

- Trong dòng trực hệ có bao nhiêu đời giữa mọi người là có bấy nhiêu bậc: con đối với cha là bậc một, cháu đối với ông bà là bậc hai và ngược lại (điều 737 BLDS Cộng hòa Pháp).

- Trong dòng bàng hệ các bậc cũng tính theo các đời: Từ một người trong các thân thuộc đến ông tổ chung và không tính ông tổ chung rồi từ ông tổ chung đến người kia: anh em là bậc hai, chú cháu là bậc ba (Điều 738 BLDS cộng hòa Pháp).

Pháp luật thừa kế cũng qui định trường hợp bố, mẹ, con của người chết không còn vào thời điểm mở thừa kế hoặc người chết không có con thì anh chị em hoặc các con của những người đó được hưởng thừa kế (Điều 750- BLDS cộng hoà Pháp)

Nếu như ở Việt nam, những người thừa kế cùng hàng được chia phần như nhau thì ở Pháp lại có một số điểm khác biệt. Điều 733 BLDS cộng hoà Pháp qui định di sản phải được chia làm hai phần cho bên nội và ngoại của người chết rồi mới chia cho những người thừa kế tùy theo bên nội. Như vậy ví dụ nếu bên nội còn một người thừa kế, bên ngoại ba người thì người thừa kế bên nội sẽ nhận được phần di sản bằng ba người bên ngoại. Con cái được hưởng phần thừa kế của cả hai bên nội ngoại. Đối với con cái cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ thì họ được hưởng phần tùy theo họ của mình.

Về quyền thừa kế của vợ (chồng), theo Điều 765-BLDS cộng hòa Pháp: "Khi người chết không còn thân thuộc đến bậc có thể thừa kế hoặc chỉ để lại những thân thuộc bàng hệ không phải là anh chị em hoặc ti thuộc của anh, chị, em, tài sản thừa kế đương nhiên hoàn toàn thuộc về vợ chồng không ly hôn còn sống và không có bản án xử ly thân đã có hiệu lực pháp luật" [3].

Qua việc nghiên cứu những quy định về hàng thừa kế trong BLDS Pháp, chúng ta thấy diện thừa kế của cộng hoà Pháp dựa trên quan hệ chủ đạo huyết thống thân thuộc giữa người thừa kế với người để lại di sản. Quan hệ hôn nhân không được xem xét trong việc xác định chủ thể có quyền thừa kế một cách độc lập mà luôn bị chi phối bởi quan hệ huyết thống, việc thừa kế giữa những người quan hệ thân thuộc theo bàng hệ cũng bị giới hạn bởi thứ bậc, tới bậc thứ sáu thì không được thừa kế, trừ con cháu của anh chị em ruột người để lại di sản. Đặc điểm của pháp luật về thừa kế nước Pháp là hàng thừa kế xen kẽ với bậc thừa kế. Thừa kế theo bậc được thực hiện khi người cùng hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng một thời

điểm với người để lại di sản, thì các con, các cháu của người đó được hưởng di sản, họ được gọi là người thừa kế đại diện.

Vấn đề thừa kế thế vị được quy định tương đối rõ ràng, cụ thể trong BLDS nước cộng hoà Pháp. Theo BLDS nước cộng hoà Pháp, thừa kế thế vị là một giả định của luật, theo đó những người thừa kế thế vị được hưởng các quyền của người được thế vị. Thừa kế thế vị có thể được áp dụng đối với tất cả các bậc của dòng trực hệ bề dưới. Trong dòng trực hệ bề dưới, thế vị đến vô hạn. Thế vị được chấp nhận trong mọi trường hợp, hoặc các con của người chết cùng hưởng di sản với các con cháu của người con chết trước, hoặc tất cả các con của người chết đều chết trước người ấy, thì các con cháu của những người con ấy sẽ ở những bậc ngang nhau hoặc không ngang nhau [3].

Ngoài ra, BLDS nước cộng hoà Pháp còn quy định thừa kế thế vị cũng được thừa nhận trong trường hợp bố, mẹ, cháu, chắt, khi còn sống bị tước quyền thừa kế. Thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi. Từ những quy định này, chúng ta thấy rằng thừa kế thế vị theo pháp luật nước Pháp được mở rộng hơn, thừa kế đến vô hạn.

Như vậy, các quy định về thừa kế trong BLDS nước cộng hoà Pháp đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam trong suốt thời gian gần 200 năm qua. Các quy định về thừa kế trong BLDS nước cộng hoà Pháp không chỉ tác động trong phạm vi các nước ở châu Âu, mà còn lan rộng khắp nơi trên thế giới, như châu Mỹ (Pêru, Mêxico, Canađa...), châu Phi (Congo, Somalie,...) châu Á (Philippin, Nhật, Việt Nam, Indonisia)... Có thể nói chế định thừa kế trong BLDS nước cộng hoà Pháp năm 1804 là một cuộc cách mạng về kỹ thuật làm luật. Các quy phạm pháp luật được sắp xếp theo một trật tự nhất định, từng tiểu mục của chế định thừa kế được trình bày rõ ràng và logic. Các khái niệm pháp lý, các nguyên tắc của luật được nêu một cách ngắn gọn, nhưng đầy đủ và chuẩn xác,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/07/2024