Cơ Sở Của Việc Xác Định Diện Và Hàng Thừa Kế Theo Pháp Luật

được ban hành dưới triều Lê và Bộ luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn. Cả hai Bộ luật này đều thừa nhận những quy tắc xử sự tồn tại dưới dạng tập quán. Ví dụ, Điều 314 (Điều 31, chương Hộ Hôn) Bộ luật Hồng Đức quy định như sau:

Người kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha mẹ (người con gái) (nếu cha mẹ chết cả, thì đem đến nhà người trưởng họ, hay nhà người trưởng làng để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ cho cha mẹ (nếu cha mẹ chết cả thì nộp cho trưởng họ hay người trưởng làng), người con gái phải phạt năm mươi roi [42].

Bên cạnh đó một tập quán rất tiến bộ trong Bộ luật Hồng Đức là tục lệ tôn trọng tục thờ cúng tổ tiên, luật thừa kế cho phép con gái trưởng được hưởng phần thừa kế hương hoả nếu gia đình không có con trai (Điều 308). Có thể nói thừa kế chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.

Hiện nay, theo Điều 3, Bộ luật Dân sự năm 2005, chỉ được áp dụng tập quán khi: (i) pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận; và (ii) tập quán không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo quy định này có thể hiểu rằng các bên trong giao dịch dân sự không được thỏa thuận về việc áp dụng tập quán. Nghĩa là, khi phát sinh tranh chấp dân sự mà các bên lại thỏa thuận được về việc áp dụng tập quán để giải quyết và áp dụng tập quán này không trái với quy định pháp luật cũng không được chấp nhận.

Vấn đề áp dụng tập quán được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật nhưng điển hình nhất là trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005. Trong Bộ luật Dân sự năm 1995, tập quán pháp được thừa nhận là quy tắc xử sự trong nhiều lĩnh vực trong đó áp dụng tập quán để điều chỉnh các quan hệ về thừa kế (khoản 1, Điều 686).

Tương tự như trong Bộ luật dân sự năm 1995, trong Bộ luật năm 2005, tập quán được quy định một cách khá chi tiết, từ nguyên tắc áp dụng tập quán cho đến các quy tắc xử sự trong các chế định cụ thể. Cụ thể: các quy định áp dụng tập quán để điều chỉnh các quan hệ về thừa kế. Tại khoản 1, Điều 683 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán di sản được xác định đầu tiên là chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

Ngày 27 tháng 3 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP về việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Trong Nghị định này, tập quán được đề cập khá toàn diện với hai nội dung: (i) khuyến khích phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, duy trì các phong tục tập quán tiến bộ; (ii) bài trừ các phong tục tập quán lạc hậu, các hủ tục đã tồn tại từ lâu trong đời sống của các đồng bào dân tộc. Ưu điểm của Nghị định này là đưa ra danh mục các phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình được khuyến khích phát huy và danh mục các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xóa bỏ.

Các quy định bài trừ các phong tục, tập quán lạc hậu về quyền thừa kế giữa vợ và chồng, về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, khoản 2 Điều 10 có quy định:

Các dân tộc có quan hệ gia đình theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ có các phong tục, tập quán không bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và các tổ chức thành viên, các Già làng, Trưởng bản, các vị chức sắc tôn giáo vận động, thuyết phục người dân từng bước xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ gia đình, bảo đảm vợ, chồng có các quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 [10].

Bên cạnh đó các quy định khác về thừa kế cũng được đề cập xóa bỏ, khoản 1 Điều 12 có quy định: “Các phong tục, tập quán không bảo đảm quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng khi một bên chết, thì vận động xoá bỏ phong tục, tập quán này nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bên còn sống” [10]; về quan hệ giữa cha mẹ và các con, Điều 13 quy định: “Vận động xoá bỏ các phong tục, tập quán thể hiện sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái trong gia đình của các dân tộc theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ” [10]. Tiêu biểu chế độ mẫu hệ của người Ê Đê. Người Ê Đê quan niệm quyền thừa hưởng và quản lý gia sản là thuộc về người con gái cả. Luật tục ghi rõ tài sản của tổ tiên, cha mẹ (ngăn kdrăp) thuộc về người con gái cả quản lý. Trong gia đình, người chồng chỉ có quyền sử dụng tài sản chứ không có quyền sở hữu. Điều này phù hợp với kiểu gia đình lớn trong xã hội truyền thống.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Theo quan niệm của người Ê Đê, tài sản mà cha mẹ để lại là: nhà cửa, chiêng ché, trâu bò, gùi, chén, bát,... chứ đất đai không phải là tài sản. Vậy, quyền sở hữu của con trai đối với đất đai được thừa hưởng từ cha mẹ là điều hoàn toàn mới, không có trong luật tục. Nhìn chung, người Ê Đê cho rằng con trai được quyền quản lý và sử dụng phần đất đai do bố mẹ cho và quyền này được giao cho con của anh ta khi anh ta chết. Người vợ góa không có quyền gì đối với đất đai của chồng. Trong trường hợp không có con thì đất đai sẽ thuộc về dòng họ mẹ của anh ta.

Tuy vậy hiện nay sự điều chỉnh của thiết chế mẫu hệ Ê Đê trong quá trình thích nghi với sự biến đối ngày một phù hợp hơn. Nếu như người đàn ông Ê Đê truyền thống không được đụng tới tài sản với tư cách là gia sản thì ngày nay, khi tách ra ở riêng, tài sản của gia đình nhỏ là do hai vợ chồng làm ra, thuộc về họ hoàn toàn. Và như vậy, vấn đề sở hữu và thừa kế khó được giải quyết theo luật tục vì ngôi nhà mới là kết quả lao động của người đàn ông.

Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam - 5

Hầu hết các quy định hiện hành chỉ thừa nhận áp dụng tập quán mà

chưa quy định về nội dung của tập quán. Các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ thừa nhận áp dụng tập quán nhất định mà không quy định rõ nội dung của những tập quán đó. Thiếu quy định về nội dung của những tập quán này gây khó khăn và thiếu thống nhất cho các Tòa án trong quá trình áp dụng. Như vậy, còn không ít vướng mắc trong thực tiễn công nhận và áp dụng tập quán ở nước ta. Điều này cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa quy định pháp luật và thực tiễn. Nguyên nhân cơ bản của những vướng mắc trong thực tiễn công nhận và áp dụng tập quán là các quy định pháp luật hiện hành về tập quán pháp còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Trong khi đó, Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa ban hành hướng dẫn về công nhận và áp dụng tập quán trong công tác xét xử. Thêm vào đó, chúng ta chưa có danh mục tập quán của cả nước. Hơn nữa, giữa các Tòa án cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về công nhận và áp dụng tập quán nhằm đạt được sự thống nhất về vấn đề này. Để nâng cao hiệu quả áp dụng tập quán pháp ở Việt Nam, những tồn tại này cần được giải quyết.

1.2.4. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật

* Quan hệ huyết thống

Lễ giáo và truyền thống đạo đức của người Việt Nam vốn rất coi trọng dòng dõi cũng như tổ tiên đã sinh ra mình. Những người có quan hệ huyết thống luôn có trách nhiệm thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Tục ngữ có câu “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” không những phù hợp với truyền thống đạo đức sống của người Việt Nam mà còn được pháp luật quy định. Vì vậy quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo luật.

Pháp luật về hôn nhân và gia đình bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha mẹ và nghĩa vụ của người làm cha mẹ của con. Quyền thừa kế của con không phụ thuộc vào hình

thức hôn nhân của cha mẹ. Việc xác định quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và các con là việc rất quan trọng nhằm bảo vệ những quyền lợi về tài sản và nhân thân cho cá nhân và là đạo lý của đời sống xã hội, với quan điểm mỗi người sinh ra đều có cội nguồn của mối quan hệ ruột thịt. Quan hệ huyết thống là căn cứ để xác định nghĩa vụ và quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ gia đình và xã hội, bên cạnh đó nó còn là căn cứ để xác định trách nhiệm hay nghĩa vụ giám hộ, đại diện cho nhau trong các quan hệ dân sự và xã hội khác. Thông qua quan hệ huyết thống với cha mẹ ta mới có thể xác định được mối quan hệ huyết thống khác như ông bà, anh chị em ruột…

Pháp luật Việt Nam ghi nhận, cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ trong mối quan hệ huyết thống cụ thể tại Điều 36, Điều 47, Điều 48, Luật HN&GĐ năm 2000 tiếp nối là Luật HN&GĐ năm 2014 quyền và nghĩa vụ ngày càng cụ thể hơn từ Điều 68 đến Điều 87, mục 1, chương V, Luật HN&GĐ năm 2014.

Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản, BLDS năm 2005 phân những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau.

* Quan hệ hôn nhân

Hôn nhân là sự gắn bó giữa nam và nữ để trở thành một gia đình, một tế bào của xã hội. Trong đó họ phải cùng nhau tạo dựng những nền tảng vững chắc về mặt kinh tế để đảm bảo cho cuộc sống gia đình ổn định và việc nuôi dạy con cái tốt. Đồng thời, họ cũng phải có những trách nhiệm và bổn phận đối với nhau do pháp luật quy định và trên cơ sở đạo đức truyền thống của người Việt Nam.

Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng cho đến thời điểm mở thừa kế phải được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ vợ chồng tuân thủ những quy định của pháp luật hôn nhân về độ tuổi, ý chí tự nguyện, phạm vi quan hệ huyết thống khi kết hôn…

Sự thừa nhận của pháp luật đối với hôn nhân là cơ sở để bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của vợ chồng trong mối quan hệ tài sản chung, trong nghĩa vụ đối với con cái, nghĩa vụ vợ chồng đối với nhau và với người thứ ba.

Ở nước ta trải qua giai đoạn lịch sử dài, nhiều tồn tại và các quy định về hôn nhân gia đình tại các thời kì có nhiều điểm khác nhau ảnh hưởng tới các quy định pháp luật về hôn nhân và thừa kế cũng có nhiều điểm khác nhau. Tuy vậy pháp luật hiện nay chỉ thừa nhận chế độ một vợ, một chồng. Đây là cơ sở và căn cứ giải quyết các chế độ khác kéo theo trong mối quan hệ này ngày một tiến bộ và đi vào đời sống phù hợp hơn.

Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người về tài sản, vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo quy định tại khoản 1, Điều 676 BLDS năm 2005.

* Quan hệ nuôi dưỡng

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ được xác lập dựa trên cơ sở nuôi con nuôi được pháp luật thừa nhận. Mối quan hệ này nhằm đảm bảo cho trẻ em quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; tránh những điều bất hạnh thiệt thòi cho những đứa trẻ vốn đã không được hưởng điều kiện và sự quan tâm từ chính cha mẹ mình. Xuất phát từ bổn phận của người nuôi dưỡng đối với con nuôi quan hệ nuôi dưỡng trở thành một cơ sở cần thiết cho việc xác định diện thừa kế theo pháp luật.

Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha, mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng chăm sóc tốt.

Trong quan hệ nuôi dưỡng điều kiện để cha, mẹ nuôi và con nuôi được thừa kế tài sản của nhau là việc con nuôi được pháp luật thừa nhận. Pháp luật chỉ thừa nhận và xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và

con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi không trái với luân thường đạo lý, mục đích xã hội như bóc lột sức lao động dùng con nuôi vào mục đích xấu xa phạm pháp... Điều kiện quan trọng để việc nhận con nuôi là hợp pháp là phải tuân theo các nguyên tắc của Luật Nuôi con nuôi 2010 và phải được UBND công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.

Ngoài ra, giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế di sản của nhau.

Mối quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi và mối quan hệ giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu được pháp luật thừa nhận thì họ sẽ là hàng thừa kế thứ nhất của nhau.

Các quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng là những quan hệ tình cảm có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba quan hệ này để xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật. Ba mối quan hệ này có tính độc lập tương đối vì quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản và người thừa kế. Có sự xác định những người thừa kế theo pháp luật giúp ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong dòng tộc và có tác dụng giáo dục ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thừa kế.

Tiểu kết chương 1


Pháp luật về thừa kế ra đời ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Qua các thời kỳ lịch sử, khi số lượng của cải xã hội ngày càng gia tăng dẫn đến các tranh chấp về thừa kế cũng đa dạng và phong phú hơn. Để hạn chế các tranh chấp trong quan hệ thừa kế, các quy phạm pháp luật về thừa kế đã ra đời. Sự phát triển không ngừng của đời sống kinh tế - xã hội, các quan hệ xã hội nảy sinh. Các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng đã có nhiều bất cập trong tiến trình phát triển của pháp luật qua các thời kỳ.

BLDS 2005 ra đời, hơn 9 năm thực hiện thực tiễn đã cho thấy các quy phạm pháp luật thừa kế trước đây đã được sửa đổi một số điều ngày một phù hợp với xã hội thực tiễn.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 25/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí