Diện Thừa Kế Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Hiện Hành

nhiều quy định đã trở thành mẫu mực được các quốc gia trên thế giới tham khảo, học hỏi để hoàn thiện pháp luật.

1.3.3. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Iran

Iran là nước mà phần đông dân số theo đạo Hồi, một đạo không mấy phổ biến ở nước ta. Do đó pháp luật thừa kế của Iran cũng có nhiều điểm giống và khác biệt so với pháp luật thừa kế Việt Nam.

Thứ nhất, là căn cứ xác định quyền thừa kế. Như các nước Pháp, Nhật, Iran cũng xác định quyền thừa kế dựa theo hai mối quan hệ chính là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân theo Điều 861 BLDS của nước cộng hòa hồi giáo Iran (The civil code of the Islamic republic of Iran) gọi tắt là BLDS Iran. Thứ hai, là các qui định về diện và hàng thừa kế: Xét theo mối quan hệ huyết thống luật pháp Iran cũng chia ra làm 3 hàng thừa kế (Điều 862):

- Hàng thứ nhất: Cha mẹ và con của người chết

- Hàng thứ hai: ông bà, anh chị em và con cái của anh chị em người chết (cháu ruột)

- Hàng thứ ba: Cô, dì, chú, bác và con cái của họ

Điều 863 BLDS Iran: " Người thừa kế ở hàng sau sẽ được quyền hưởng tài sản khi không còn người thừa kế nào ở hàng trước."

Điều 864 BLDS Iran: "Một ví dụ về những người thừa kế theo quan hệ hôn nhân là vợ chồng hoặc những người vợ, người chồng còn sống của người chết" [4].

Vậy là đối với cả ba hàng thừa kế theo luật của Iran đều khác biệt với luật Việt Nam. Hàng thứ nhất chỉ có cha mẹ và con chứ không có vợ hoặc chồng của người chết. Cháu ruột được đưa lên thừa kế ở hàng thứ hai khác với qui định ở hàng thứ ba của nước ta. Hàng thứ ba của luật Iran chỉ có cô dì chú bác và con cái họ mà không có trường hợp cụ và chắt. Ở đây ta có thể thấy luật pháp Iran có một điểm khá kì lạ đó là nếu bác chết thì cháu ruột được hưởng thừa kế ở hàng thứ hai nhưng khi cháu chết bác lại được thừa kế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

ở hàng thứ ba và anh em họ cũng được hưởng quyền thừa kế ở hàng thứ ba của nhau chứ không như ở Việt Nam anh em họ chỉ có thể hưởng thừa kế trong trường hợp thừa kế thế vị.

Trên cơ sở xem xét pháp luật về diện và hàng thừa kế của một số quốc gia trên thế giới, có thể khẳng định rằng thừa kế là một chế định đóng vai trò quan trọng trong pháp luật dân sự của mỗi nước, thừa kế là phương thức bảo vệ quyền sở hữu. Nhìn chung, chúng đều có các đặc điểm chung như sau:

Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 - 5

Một là, pháp luật về thừa kế các nước nói trên luôn chú trọng bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản. Quan hệ hôn nhân không được xem xét trong việc xác định chủ thể có quyền thừa kế một cách độc lập, mà luôn bị chi phối bởi quan hệ huyết thống, sự chi phối đó được thể hiện ở vị trí hưởng di sản của người vợ goá, chồng goá được hưởng phần di sản nhiều hay ít đều phụ thuộc vào vị trí của người vợ goá, người chồng goá đó được thừa kế ở hàng nào cùng những người có quan hệ huyết thống của người chết.

Hai là, luật thừa kế của các nước nói trên, đều quy định các hàng thừa kế theo pháp luật và đều có đặc điểm chung là hàng thừa kế xen kẽ với bậc thừa kế. Thừa kế theo bậc được thực hiện khi người thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết trong cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản, họ được gọi là người thừa kế đại diện.

So với pháp luật các nước nói trên, pháp luật về thừa kế ở Việt Nam bên cạnh những đặc điểm chung đó thì vẫn giữ được những sắc thái riêng như: diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị, thừa kế của con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú, ... Sự khác nhau đó xuất phát từ phong tục, truyền thống văn hoá, cơ sở vật chất và hoàn cảnh xã hội của mỗi nước. Nhưng nhìn chung bản chất của việc thừa kế di sản chính là sự bảo vệ lợi ích của các thành viên trong gia đình, trong dòng tộc.

Chương 2‌

DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH


2.1. Diện thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Cũng như đa số các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam quy định diện thừa kế rộng, hẹp khác nhau tùy vào từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên, việc pháp luật quy định như thế nào cũng không thể tách khỏi quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ huyết thống. Diện thừa kế luôn bị chi phối bởi quan hệ hôn nhân và gia đình. Khi tìm hiểu về thừa kế không thể không bỏ qua việc xác định diện thừa kế vì diện thừa kế là tiền đề để xác định hàng thừa kế theo pháp luật.

2.1.1. Diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống

“Tam đại đồng đường”, “Tứ đại đồng đường” là khuôn mẫu gia đình nhiều thế hệ rất phổ biến trong xã hội Việt Nam. Mỗi một cá nhân trong gia đình ấy đều được tạo nên từ những mắt xích rất bền chặt đó là quan hệ huyết thống giữa các thế hệ. Khi một người trong cái mắt xích ấy chết đi, tài sản mà họ để lại sẽ trở thành di sản thừa kế vấn đề đặt ra là những ai sẽ được hưởng phần di sản thừa kế của người chết ấy. Thờ cúng tổ tiên là phong tục, tập quán, nét văn hóa lâu đời của người dân Việt. Để có người hương hỏa, lưu giữ nét văn hóa ấy, tổ tiên, ông bà thường để lại tài sản của mình sau khi chết cho con trai, cháu trai. Trong thời kỳ phong kiến Bộ Luật Hồng Đức (còn có tên gọi khác là Quốc Triều Hình Luật) có quy định về diện thừa kế dựa trên khuôn mẫu của kiểu gia đình “Tam, tứ đại đồng đường”. Theo đó, phạm vi những người thừa kế được xác định khá rộng. Khi một người chết đi di sản của họ được phân chia cho toàn bộ những người thân bên nội tộc, chỉ khi không còn ai bên nội tộc thì di sản đó mới được chuyển sang cho bên ngoại.

Điểm tiến bộ của Bộ Luật này so với trước đây là quy định con gái và con trai có quyền hưởng thừa kế ngang nhau chỉ đối với di sản thờ cúng thì quyền thừa kế người con gái không được hưởng.

Đến thời kỳ Pháp thuộc, ở Nam Kỳ năm 1883 Bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời, ở Bắc Kỳ năm 1931 Bộ luật Bắc Kỳ ra đời và Bộ dân luật Trung Kỳ ra đời năm 1936 ở Trung Kỳ. Theo quy định của Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ di sản do người chết để lại cũng được phân chia cho toàn bộ những người thân bên nội tộc, chỉ khi không còn ai bên nội tộc thì di sản đó mới được chuyển sang cho bên ngoại như quy định của Bộ Luật Hồng Đức. Cụ thể những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật bao gồm: Các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản [25].

Sau Cách mạng tháng tám năm 1945 một thời đại mới đã ra đời cùng với nó là việc nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật tiến bộ xóa bỏ những tàn dư lạc hậu của chế độ cũ. Với sự ra đời của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã bị loại bỏ thay vào đó là quy định tại Điều 9 của Hiến pháp 1946: “đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”. Quy định này của Hiến pháp 1946 đã được cụ thể hóa trong Sắc lệnh số 97/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22/5/1950. Theo đó, diện thừa kế được xác định theo quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân bao gồm: Con, cháu, vợ, chồng [11]. Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống thời kỳ này được quy định khá hẹp chỉ có con, cháu. Mặc dù vậy, Sắc lệnh cũng đã đặt nền móng cho việc xây dựng một chế định thừa kế hoàn chỉnh hơn trong các văn bản pháp luật sau này và xóa bỏ chế độ bất bình đẳng giữa nam và nữ trước đây.

Sau Sắc lệnh số 97 đến Thông tư 1742 do Bộ Tư pháp ban hành ngày 19/8/1956thì diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ, chồng,

các con đẻ, các con nuôi, các cháu, các chắt, cha, mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế khác. Như vậy, theo quy định của Thông tư này diện thừa kế theo huyết thống được mở rộng hơn gồm các con đẻ, các cháu, các chắt, cha, mẹ của người để lại di sản. Tuy nhiên, Thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là những ai nên những tranh chấp về thừa kế liên tục pháp sinh để khắc phục tình trạng này Thông tư số 594 của Tòa án nhân dân tối cao ra đời ngày 27/8/1968. Theo Thông tư 594 diện thừa kế theo quan hệ huyết thống đã được mở rộng hơn bao gồm các con đẻ, bố đẻ, mẹ đẻ, ông bà nội, ngoại, anh chị em ruột. Thông tư 594 đã đưa thêm anh chị em ruột và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại loại cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế. Đến Thông tư số 81 do Tòa án nhân tối cao ban hành ngày 24/7/1981 hướng dẫn Tòa án các cấp giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế quy định rõ hơn về diện thừa kế theo huyết thống. Theo đó, diện thừa kế theo pháp luật bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Những người có quan hệ huyết thống trực hệ bao gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cháu nội ngoại. Những người có quan hệ huyết thống bàng hệ bao gồm anh chị em ruột của người để lại di sản.

Mặc dù, đã có những bước tiến vượt bậc so với những Thông tư trước nhưng thông tư số 81 vẫn còn nhiều bất cập, chưa bao quát hết diện những người thừa kế theo pháp luật. Để củng cố hơn quan điểm truyền thống của cha ông “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng nhà nước (nay là Ủy ban thường vụ quốc hội) ban hành ngày 30/8/1990 đã tiếp tục mở rộng diện thừa kế theo huyết thống. Như vậy, theo Pháp lệnh thừa kế diện thừa kế theo huyết thống bao gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cụ nội ngoại, anh chị em ruột của người chết; chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết và những người mà người chết là chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột.

Đánh dấu một bước phát triển mới của chế định thừa kế, Bộ Luật dân sự ra đời năm 1995 và có hiệu lực ngày 01/7/1996 (sau đây gọi tắt là Bộ Luật dân sự 1995). Đây là lần đầu tiên diện thừa kế được quy định trong một văn bản có hiệu lực pháp lí cao. Bộ luật dân sự 1995 về cơ bản đã kế thừa những quy định của Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Điều 679 Bộ luật dân sự 1995 quy định những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột. Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, cháu của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại không thuộc diện thừa kế của ông bà, chắt của người chết mà người chết là các cụ nội ngoại không thuộc diện thừa kế của các cụ. Đến năm 2005, Bộ luật dân sự 2005 ra đời và có hiệu lực ngày 01/01/2006, Bộ luật đã kế thừa những tinh hoa trong Bộ luật dân sự 1995 và loại bỏ dần những bất cập của Bộ luật này. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 tại Điều 676, diện những người thừa kế theo quan hệ huyết thống bao gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là các cụ nội ngoại. So sánh quy định về diện những người thừa kế theo huyết thống trong Bộ luật dân sự năm 1995 với Bộ luật dân sự 2005 thì diện những người thừa kế theo quan hệ huyết thống trong Bộ luật dân sự 2005 đã được mở rộng thêm. Bộ luật dân sự 2005 đã đưa thêm cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; chắt ruột của người chết mà người chết là các cụ nội ngoại

vào diện thừa kế theo pháp luật. Quy định này của Bộ luật dân sự 2005 đã sửa đổi được những bất cập về diện thừa kế theo quan hệ huyết thống trong Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản trước đây. Quy định này phù hợp hơn với tình hình thực tiễn và càng trở nên hợp lí hơn. Nếu như ông, bà thuộc diện thừa kế theo pháp luật của các cháu, các cụ thuộc diện thừa kế của các chắt thì không lẽ nào các cháu lại không được thừa kế di sản của ông bà để lại, các chắt lại không thể thừa kế di sản các cụ để lại.

Như vậy, theo từng giai đoạn cụ thể diện những người thừa kế theo pháp luật nói chung và diện thừa kế theo quan hệ huyết thống nói riêng được bổ sung và mở rộng theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Con cái luôn là những người được hưởng thừa kế theo pháp luật của cha mẹ khi cha mẹ qua đời và ngược lại cha mẹ cũng trở thành những người thừa kế theo pháp luật của con đẻ mình. Cũng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 con cái thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ mình và ngược lại. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ, pháp luật Dân sự Việt Nam cũng không phân biệt con trai và con gái, con trong giá thú và con ngoài giá thú, những người này đều được hưởng quyền thừa kế di sản của cha mẹ để lại như nhau. Theo quy định của pháp luật hiện hành quy định tại Điều 63 Luật HNGĐ năm 2000 “con chung” của vợ chồng là những người con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của cha mẹ. Về mặt nguyên tắc xác định như sau:

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng;

Con sinh ra trước thời kỳ hôn nhân nhưng được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng;

Như vậy, theo nguyên tắc suy đoán như trên những đứa con được sinh ra trong khoảng thời gian này đều được coi là con chung của vợ chồng và sẽ được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ để lại.

“Con ngoài giá thú” là thuật ngữ dùng để chỉ những đứa trẻ được sinh ra không phải từ hôn nhân hợp pháp của cha mẹ, tức là cha mẹ của chúng không phải là vợ chồng hợp pháp. Theo quy định của Luật HNGĐ năm 2000 thì con ngoài giá thú được cha mẹ nhận hoặc được Tòa án nhân dân xác định cha mẹ có quyền và nghĩa vụ như con trong giá thú. Chính vì vậy, con ngoài giá thú cũng được hưởng quyền thừa kế như con trong giá thú mà không hề có sự phân biệt đối xử nào.

Tuy nhiên, với trình độ y học phát triển ngày càng cao như hiện nay lại làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp khác. Theo quy định của Luật HNGĐ năm 2000 thì con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng nhưng vấn đề phát sinh hiện nay là vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học. Mặc dù, Nghị định 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa học đã quy định về việc xác định cha, mẹ cho đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp khoa học. Điều 20 Nghị định số 12/2003/NĐ- CP quy định:

"1. Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân.

2. Những người theo quy định tại Khoản 1 Điều này được xác định là cha mẹ đối với đứa trẻ được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản".

Điều 21 của Nghị định quy định: "con được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi".

Như vậy, với quy định của Nghị định số 12 có thể hiểu là đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp khoa học không được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của người cho phôi, cho tinh trùng, cho noãn. Đứa trẻ chỉ được hưởng thừa kế theo pháp luật của người mẹ sinh ra chúng hoặc của cặp vợ chồng vô sinh đã thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, Nghị định số

Xem tất cả 98 trang.

Ngày đăng: 11/07/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí