Đào Tạo Nâng Cao Năng Lực Cho Đội Ngũ Nhân Viên Cung Cấp Dịch Vụ Công Tác Xã Hội

4.1.2. Đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân viên cung cấp dịch vụ công tác xã hội

4.1.2.1. Cơ sở đề xuất

Về lý luận: Chất lượng nguồn nhân lực trong các cơ sở cung cấp dịch vụ đóng vai trò quan trọng là chủ thể của hoạt động cung cấp DVCTXH. Mức độ và chất lượng, hiệu quả của dịch vụ phụ thuộc vào sự hiểu biết/nhận thức, năng lực và thái độ của đội ngũ nhân viên.

Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố năng lực về đội ngũ chuyên môn của NVCTXH cùng với một số yếu tố nghề nghiệp khác có ảnh hưởng mạnh tới DVCTXH đối với NLĐNC tại cộng đồng. Bên cạnh đó, nhân viên CTXH cung cấp dịch vụ tại cộng đồng đa số từ nhiều ngành nghề khác nhau còn thiếu, yếu, cùng lúc đảm nhận nhiều công việc nên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN.

4.1.2.2. Giải pháp

Để thực hiện giải pháp này, cần tập trung vào các biện pháp sau:

- Cần tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên CTXH tại cộng đồng. Hiện nay đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên CTXH còn mỏng và chưa được đào tạo CTXH chuyên nghiệp. Đặc biệt, tại các địa bàn khảo sát đội ngũ NVCTXH, cộng tác viên CTXH mới chỉ được hình thành để cung cấp dịch vụ và còn thiếu sự chuyên nghiệp. Mặt khác, luân chuyển cán bộ làm thay đổi vị trí việc làm nên một số nhân viên mới tiếp nhận công việc chưa qua tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về CTXH. Về cơ bản việc cung cấp các dịch vụ đã được thực hiện bởi NVCTXH chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp nhưng vẫn chưa phản ánh được tính chuyên nghiệp như vì lợi ích tốt nhất cho NLĐNC, dựa trên nhu cầu, đảm bảo được quyền của họ. Nguyên nhân có thể một số cơ sở cung cấp dịch vụ còn mới nên chưa thể mở ra để cung cấp các DVCTXH cho các đối tượng có nhu cầu.

- Để đảm bảo cho các hoạt động cung cấp DVCTXH đối với NLĐNC hiệu quả cao thì cần thiết phải tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng, rèn luyện phẩm chất cho nhân viên cung cấp DVCTXH để có thể đáp ứng các yêu cầu hội nhập trong bối cảnh hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động DVCTXH được quyết định một phần không nhỏ bởi năng lực, trình độ của nhân viên cung cấp DVCTXH.

- Cần có các hoạt động tổng kết, đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CTXH trong các cơ sở đào tạo chính quy cũng như các trường nghề, các khóa tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn trong thời gian thực hiện Đề án 32 giai đoạn 2021-2030 để điều chỉnh kế hoạch, nội dung bồi dưỡng NVCTXH trong thời gian tới. Đồng thời phải gắn với sử dụng, bổ nhiệm với việc bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn cho NVCTXH, cộng tác viên.

- Cần phải linh động phối kết hợp với các cơ sở đào tạo trên địa bàn trong việc mở các lớp tập huấn ngắn hạn, dài hạn, từ kiến thức cơ bản đến kiến thức chuyên sâu tại một số cơ sở xã hội hoặc tại địa phương nhằm giúp cho nhân viên cung cấp DVCTXH thấy rõ vị trí của nghề, vai trò và trách nhiệm công việc của mình để họ có thực hiện tốt các giá trị đạo đức, nguyên tắc và thái độ đúng đắn hơn với nghề nghiệp. Đồng thời, với những hiểu biết chuyên sâu về ngành CTXH sẽ phát huy khả năng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xã hội như tư vấn, tham vấn... cho NLĐNC giúp các họ có thêm niềm tin và sức mạnh về tinh thần để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, vươn lên hoà nhập cộng đồng tốt hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

- Nhân viên cung cấp DVCTXH cần nâng cao hiệu quả vai trò biện hộ, thúc đẩy việc đưa ra các chính sách hỗ trợ phù hợp cũng như nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng đối với NLĐNC. Bên cạnh đó, NVCTXH thúc đẩy các đơn vị thực hiện tốt các chính sách cho thân chủ từ các cá nhân và các đơn vị tổ chức có liên quan.

- Phát triển cả về quy mô và chất lượng đội ngũ NVCTXH, cộng tác viên CTXH tại cộng đồng, trong việc đóng vai trò huy động, kết nối nguồn lực trợ giúp NLĐNC. Đồng thời NVCTXH, cộng tác viên CTXH tuyên truyền vận động thay đổi nhận thức đối với NLĐNC để họ hòa nhập cộng đồng, vượt qua những khó khăn để phục hồi và phát triển bản thân.

Dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh - 19

- Ngoài những vấn đề trên để có thể nâng cao được năng lực, trình độ thì chính bản thân nhân viên cung cấp DVCTXH cũng phải luôn trau dồi những phẩm chất đạo đức, cố gắng tìm hiểu, học hỏi, và trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng, thái độ về CTXH để có thể cung cấp DVCTXH phù hợp, thuận lợi đối với NLĐNC một cách tốt nhất và đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của nhu cầu phát triển xã hội.

4.1.3. Đẩy mạnh phát triển dịch vụ công tác xã hội ở cộng đồng

4.1.3.1. Cơ sở đề xuất

Về lý luận: Cơ sở cung cấp DVCTXH là nơi để cung cấp các dịch vụ cho các đối tượng có nhu cầu nói chung và NLĐNC khu vực KTPNN nói riêng, đồng thời là nơi

làm việc của các NVCTXH là chủ thể của hoạt động sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc cung cấp dịch vụ.

Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu cho thấy, mạng lưới các cơ sở cung cấp DVCTXH đã được hình thành ở các trung tâm và nhiều nhất ở ngành LĐTBXH, tiếp đến là ở các ngành Y tế, Giáo dục, các hội, đoàn thể chính trị - xã hội, có rất nhiều mô hình Trung tâm CTXH đã vận hành hiệu quả, cung cấp dịch vụ trợ giúp cần thiết cho đối tượng. Tuy nhiên, tại cộng đồng còn thiếu mạng lưới cung cấp DVCTXH chuyên nghiệp cho NLĐNC ảnh hưởng mạnh tới việc cung cấp DVCTXH tại cộng đồng.

4.1.3.2. Giải pháp

Để thực hiện giải pháp này, cần tập trung vào các biện pháp sau:

- Các mô hình cung cấp DVCTXH ở cộng đồng chủ yếu đang ở giai đoạn hình thành hoặc thử nghiệm nên chưa thể đánh giá hết được tính phù hợp và hiệu quả của các dịch vụ. Mặt khác, DVCTXH còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; tính xã hội hóa chưa cao; chưa đáp ứng được nhu cầu của đối tượng và chưa dựa vào cộng đồng.

- Cần thu hút cộng đồng tham gia vào các nghiên cứu về nhu cầu của NLĐNC trên địa bàn, đánh giá mức độ đáp ứng của xã hội với nhu cầu của đối tượng sử dụng DVCTXH, qua đó đưa ra các khuyến nghị để bổ sung và điều chỉnh các chính sách hỗ trợ NLĐNC trong việc hòa nhập vào cộng đồng tại nơi đến.

- Mở rộng, phát triển và liên kết mạng lưới các cơ sở cung cấp DVCTXH cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng. Hiện nay mạng lưới mới được hình thành ở ngành LĐ- TB&XH là chủ yếu, bước đầu mới được thí điểm ở các ngành y tế, giáo dục với phạm vi, quy mô nhỏ, số lượng đối tượng được hưởng DVCTXH rất hạn chế. Đồng thời, các DVCTXH đang cung cấp chưa đa dạng, chủ yếu cho các nhóm đối tượng yếu thế còn các đối tượng khác có nhu cầu chưa tiếp cận được. Bên cạnh đó, thiếu sự gắn kết giữa các mạng lưới cung cấp DVCTXH, sự phối hợp giữa các ban/ngành, đoàn thể còn hạn chế, ảnh hưởng đến lượng dịch vụ hỗ trợ cho NLĐNC. Một số dịch vụ mang tính chuyên sâu như tham vấn, can thiệp trị liệu tâm lý, can thiệp khủng hoảng,… chưa được cung cấp hoặc cung cấp rất ít từ các cơ sở, Trung tâm CTXH.

- Kết nối để cung cấp đa dạng các loại hình DVCTXH không chỉ đối với đối tượng yếu thế mà cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng dịch vụ, trong đó có NLĐNC, đặc biệt là các DVCTXH hỗ trợ khẩn cấp như: Cung cấp các dịch vụ điều trị y tế ban đầu; hỗ trợ về tâm lý xã hội, tư vấn về pháp lý, các chương trình, chính sách

ASXH,… DVCTXH có sự kết hợp giữa các cơ quan cung cấp công lập và ngoài công lập chưa được xác định rõ ràng. Các dịch vụ cung cấp mang tính chuyên nghiệp, chuyên sâu chưa được cung cấp cho người dân tại cộng đồng nói chung và NLĐNC khu vự KTPNN nói riêng, chưa được cải thiện và chưa đạt hiệu quả. Việc cung cấp DVCTXH chủ yếu là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Trong giai đoạn đầu, chỉ mới cung cấp các DVCTXH cơ bản đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Các DVCTXH chuyên sâu cho các đối tượng có nhu cầu mới bắt đầu phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu cần sử dụng DVCTXH của xã hội.

- Phát triển hệ thống DVCTXH chất lượng và nâng cao năng lực cung cấp DVCTXH đối với NLĐNC trong tất cả các lĩnh vực liên quan thông qua việc xác định các lĩnh vực, nội dung, hình thức hoạt động cung cấp DVCTXH, xác định đối tượng phục vụ, cơ sở cung cấp dịch vụ công lập và ngoài công lập, nguyên tắc phối kết hợp cung cấp dịch vụ tại cộng đồng hay các trung tâm. Phải thay đổi thái độ từ thương hại, ban ơn đối tượng sang phục vụ như một khách hàng để làm tăng sự hài lòng của người sử dụng DVCTXH.

- Cần kết nối DVCTXH đến gần với những người có nhu cầu sử dụng và NLĐNC hơn. Nhân viên CTXH đến các cộng đồng để cung cấp các dịch vụ, lồng ghép công tác tuyên truyền, tư vấn, kết nối, can thiệp và hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng có nhu cầu, đặc biệt là các đối tượng yếu thế tại cộng đồng.

- Trong quá trình cung cấp DVCTXH thì lãnh đạo các địa phương phải thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, kỹ năng, thái độ của cán bộ, nhân viên cũng như hình thức cung cấp để từ đó nâng cao chất lượng DVCTXH tạo điều kiện thuận lợi giúp cho NLĐNC sử dụng thuận lợi hơn các dịch vụ, nguồn lực phù hợp nhất.

- Trong bối cảnh hiện nay việc tăng biên chế và đề xuất tăng ngân sách đầu tư là khó khăn. Tuy nhiên, theo lộ trình cần có kế hoạch để tuyển bổ sung thêm cho các vị trí cần thiết nhất là người trực tiếp cung cấp DVCTXH về chuyên ngành CTXH, tâm lý học học, giáo dục đặc biệt, Bác sỹ, kỹ thuật viên vật lý trị liệu,... có kiến thức, kỹ năng làm việc phù hợp với đối tượng yếu thế nói chung và NLĐNC nói riêng.

- Các xã, phường cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động số hóa trong việc quản lý trường hợp với NLĐNC tại cộng đồng. Nếu NLĐNC chưa được lập hồ sơ quản lý trường hợp một cách đầy đủ sẽ không nắm được thông tin, không đánh giá được nhu

cầu của NLĐNC về tư vấn, chăm sóc sức khỏe, các nhu cầu hỗ trợ. Thông qua quản lý trường hợp NVCTXH nắm bắt được đặc điểm, hoàn cảnh, nhu cầu và khả năng của từng NLĐNC và gia đình từ đó thúc đẩy DVCTXH cho NLĐNC tại cộng đồng hiệu quả hơn rất nhiều.

- Thúc đẩy xã hội hóa mô hình cung cấp DVCTXH với NLĐNC thông qua việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các chính sách mới tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi nhằm khuyến khích các cá nhân, thành phần kinh tế, tổ chức xã hội,... tham gia đầu tư, xây dựng các cơ sở cung cấp DVCTXH tại cộng đồng. Mặt khác, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở cung cấp DVCTXH công lập và ngoài công lập. Thực tế cho thấy, tính xã hội hóa chưa cao, chưa phát huy hết được vai trò của các tổ chức ngoài công lập. Đây là biện pháp quan trọng để huy động mọi nguồn lực trong xã hội trong việc nâng cao chất lượng DVCTXH đối với người có nhu cầu sử dụng và NLĐNC ngày càng tốt và chuyên nghiệp hơn.

- Huy động các tổ chức, cá nhân và cộng đồng tham gia cung cấp DVCTXH đối với NLĐNC; tăng cường và đổi mới phương thức huy động, vận động nguồn lực để đảm bảo thực hiện các mục tiêu của kế hoạch như huy động ngân sách nhà nước và vận động các tổ chức kinh tế, xã hội; lồng ghép hoạt động cung cấp DVCTXH vào các chương trình kinh tế, xã hội của địa phương.

- Xây dựng, huy động, kết nối các nguồn lực trong nước và quốc tế để nguồn cung cấp DVCTXH ngày càng đa dạng, phong phú để cung cấp cho NLĐNC khu vực KTPNN và các đối tượng có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Mặt khác, việc huy động các DVCTXH sẵn có trong cộng đồng để hỗ trợ nhằm thu hút sự tham gia của NLĐNC, tăng khả năng tự tin và sự chủ động trong tìm kiếm thông tin về DVCTXH để họ hòa nhập cộng đồng tại nơi đến tốt hơn.

4.1.4. Nâng cao nhận thức và năng lực khai thác và sử dụng về dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư

4.1.4.1. Cơ sở đề xuất

Về lý luận: Nhận thức và năng lực khai thác thông tin của NLĐNC sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng DVCTXH. Việc tiếp cận được các DVCTXH sẽ hỗ trợ NLĐNC cải thiện cuộc sống, tăng năng lực, thúc đẩy tăng quyền và chủ động hòa nhập vào xã hội ở nơi đến. NLĐNC không chỉ với tư cách đối tượng sử dụng dịch vụ mà còn là chủ thể hành động với nhận thức về quyền, trách nhiệm của bản thân, sự

hợp tác và tham gia cùng với các năng lực của bản thân sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng DVCTXH tại cộng đồng.

Về thực tiễn: Qua phân tích thực trạng cho thấy, NLĐNC còn chưa hiểu rõ về tầm quan trọng của DVCTXH, khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ họ không không biết tìm kiếm nguồn thông tin để được hỗ trợ. Bên cạnh đó, NLĐNC thường ít tham gia vào các hoạt động cộng đồng và họ không chủ động để khai thác nên họ cũng không có được thông tin về DVCTXH.

4.1.4.2. Giải pháp

Để thực hiện giải pháp này, cần tập trung vào các biện pháp sau:

- Nhận thức của NLĐNC có tác động rất lớn đến khả năng sử dụng DVCTXH, đặc biệt là nhận thức về nhu cầu cần sử dụng DVCTXH của họ. Cần tổ chức các chương trình truyền thông hiệu quả, qua đó tăng cường sự hiểu biết về nghề CTXH của NLĐNC.

- Năng lực khai thác và tiếp cận thông tin về DVCTXH ở cộng đồng cũng tác động rất lớn đến nhận thức của họ về nghề CTXH. Vì vậy bên cạnh các giải pháp truyền thông, giáo dục,… các cơ quan chuyên môn cần tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao năng lực này cho NLĐNC như cung cấp các nguồn thông tin liên quan về các hệ thống cơ sở cung cấp DVCTXH tại cộng đồng, hướng dẫn kỹ năng và sự chủ động trong khai thác sử dụng thông tin của NLĐNC.

- Thúc đẩy và tạo điều kiện để NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, qua đó họ nắm bắt được các thông tin về pháp luật liên quan, chính sách ASXH, chương trình hỗ trợ, DVCTXH khi có nhu cầu sử dụng hoặc kết nối thông tin cho những NLĐNC khác để tăng cường khả năng sử dụng DVCTXH cho NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN.

- Một bộ phận NLĐNC hiện nay vẫn còn tâm lý buông xuôi, e dè, tự ti, sợ bị kỳ thị nên không muốn hoặc ngại tìm đến các DVCTXH hỗ trợ. Mặt khác, do tính chất công việc, thời gian làm việc không ổn định nên họ không thuận lợi trong việc sử dụng các dịch vụ, nhất là những người có việc làm phải di chuyển ra khỏi vùng cư trú như lái xe, xây dựng. Qua thực tiễn cho thấy, một số cách can thiệp hiệu quả, nâng cao nhận thức với việc áp dụng những kiến thức CTXH, các hoạt động này cần được chuyên môn hóa theo những phương pháp CTXH đặc thù như: CTXH cá nhân, CTXH nhóm hoặc quản lý trường hợp hoặc tham vấn trực tiếp với từng NLĐNC.

4.1.5. Tăng cường công tác giáo dục truyền thông về cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại cộng đồng

4.1.5.1. Cơ sở đề xuất

Về lý luận: Truyền thông giáo dục là phương thức tác động đến nhận thức con người, thông qua đó hình thành và phát triển nhận thức của con người về thế giới khách quan. Để giúp NLĐNC cũng như người dân tại cộng đồng hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về các DVCTXH, việc tổ chức truyền thông về cung cấp các DVCTXH tại cộng đồng là rất cần thiết. Truyền thông thể hiện được vai trò, sức mạnh của mình nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa đối với nghề CTXH, bám sát vào các mục tiêu phát triển của Đề án theo từng giai đoạn.

Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu cho thấy, chính quyền địa phương, các ban/ ngành, đoàn thể đã thực hiện các hoạt động truyền thông về nghề CTXH nói chung và về DVCTXH nói riêng tại địa phương. Tuy nhiên, hình thức, nội dung còn chưa phong phú, đa dạng, còn mang tính lồng ghép, sự phối kết hợp với các ban/ngành, đoàn thể chưa hiệu quả, nhiều NLĐNC chưa biết về DVCTXH. Việc ứng dụng lý thuyết hành vi lý giải được công tác tuyên truyền sẽ tác động rất lớn việc thay đổi nhận thức và giúp NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN chủ động hơn trong việc tiếp cận thông tin về DVCTXH.

4.1.5.2. Giải pháp

Để thực hiện giải pháp này, cần tập trung vào các biện pháp sau:

- Cần phải tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến các cấp, các ngành và xã hội về chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; chính sách, chương trình hỗ trợ, DVCTXH đối với NLĐNC mà nhà nước đang được triển khai. Bởi vì, nhận thức về nhu cầu sử dụng DVCTXH đối với người dân còn hạn chế. Số lượng người dân có nhu cầu sử dụng DVCTXH còn ít, nghề CTXH mới được công nhận và họ chưa biết về nhiều các cơ sở cung cấp dịch vụ. Mặt khác, nhiều DVCTXH chưa cho thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết đối với người dân.

- Triển khai các hình thức, nội dung tuyên truyền, thông điệp phong phú, đa dạng theo từng nhóm đối tượng và theo từng giai đoạn trên các phương tiện truyền thông đại chúng, qua sân khấu hóa, các buổi họp, các buổi báo cáo chuyên đề chuyên sâu về nghề CTXH, DVCTXH, tọa đàm hay NVCTXH đi vãng gia tại địa bàn khảo sát hoặc kết hợp với cộng tác viên, các ban ngành tổ chức các buổi tuyên truyền, thiết kế các băng rôn, bảng hiệu truyền thông tại cộng đồng về các DVCTXH cho NLĐNC. Các thông tin truyên truyền cần đơn giản, dễ hiểu,… phù hợp với đặc điểm của NLĐNC khu vực KTPNN. Qua phân tích thực trạng ở trên cũng cho thấy, một bộ phận NLĐNC

làm việc ở khu vực KTPNN tại địa bàn khảo sát chưa có hiểu biết đầy đủ về các quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại nơi làm việc và nơi cư trú. Các chương trình hỗ trợ, chính sách ASXH ít được truyền thông đến cho NLĐNC. Mặt khác, tính di động việc làm và ít tham gia vào các hoạt động cộng đồng của NLĐNC nên họ không nắm bắt kịp thời các thông tin về chính sách, chương trình trợ giúp. Bên cạnh đó, hiện nay NLĐNC vẫn chưa có chương trình truyền thông đại chúng chuyên biệt chính thức nào dành riêng cho họ.

- Nâng cao hơn nữa về chất lượng truyền thông, có kế hoạch truyền thông bài bản, liên tục nhằm làm rõ các nguyên tắc của CTXH và thay đổi nhận thức của người dân, góp phần thúc đẩy hình thành, phát triển nguồn vốn xã hội để phát triển lĩnh vực CTXH và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về CTXH cũng như các thông tin về DVCTXH đối với người dân nói chung và NLĐNC nói riêng.

- Đẩy mạnh công tác truyền thông vận động xã hội về phát triển các tài liệu về DVCTXH qua nhiều hình thức để các nhà quản lý, các cơ sở cung cấp dịch vụ, người dân và đặc biệt là NLĐNC nắm bắt được và sử dụng các DVCTXH.

- Các cấp, các ngành, hội, ban ngành đoàn thể liên quan đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng, xã hội về những khó khăn của NLĐNC đang đối mặt, đồng thời nâng cao nhận thức của cộng đồng về khả năng và sự đóng góp của NLĐNC cho địa phương. NLĐNC là bộ phận không thể tách rời của xã hội và cũng có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố, giúp đỡ họ hòa nhập cộng đồng tại nơi đến được tốt hơn.

- Tổ chức các buổi thông tin truyền thông qua hình thức sinh hoạt nhóm tại các địa bàn khảo sát; các thành viên được bàn luận, lắng nghe, chia sẻ, tiếp cận thông tin về các chính sách ASXH, DVCTXH; các thành viên được tương tác hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết những khó khăn, đồng thời tìm kiếm các nguồn lực từ bên ngoài để cải thiện được vấn đề của nhóm NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN đang gặp phải.

- Xây dựng các diễn đàn trực tuyến dành cho NLĐ nói chung và NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN nói riêng để chia sẻ thông tin về pháp luật, chính sách liên quan.

- Tăng cường tổ chức các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm, mô hình hỗ trợ hiệu quả và phù hợp với thực tiễn của địa bàn khảo sát nhằm nâng cao nhận thức cho các cán bộ làm công tác quản lý có liên quan đến việc triển khai hoạt động cung cấp DVCTXH tại cộng đồng; cần khai thác tiềm năng của các tổ chức phi chính phủ về hoạt động này.

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 12/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí