các dịch vụ xã hội trong các chương trình giảm nghèo quốc gia, bao gồm các khoản vay lãi suất thấp, khám chữa bệnh miễn phí, gặp rào cản rất lớn trong việc tiếp cận giáo dục tại các trường công lập khiến NLĐNC thường phải chấp nhận trả khoản phí cao hơn để cho con học ở trường tư tại nơi đến [132, tr68]; [64].
Một trong những tiêu chí trong cơ chế, chính sách (F2) ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả DVCTXH là cần xác định rõ vị trí, vai trò của nhân viên và các đơn vị phối hợp trong cung cấp DVCTXH với NKT với ĐTB= 4,27 tương ứng 52,6% ý kiến NLĐNC cho biết ảnh hưởng rất lớn; có 26,2% ý kiến ảnh hưởng lớn và chỉ có 4.8% ý kiến hoàn toàn không ảnh hưởng. NVCTXH có vai trò hỗ trợ NLĐNC tự nâng cao năng lực để giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết; cung cấp các DVXH, thúc đẩy sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường tạo ảnh hưởng tới cơ sở xã hội và giúp nâng cao năng lực, thúc đẩy NLĐNC tăng năng lực và tự giải quyết, ngăn ngừa, khắc phục và giảm thiểu cho họ. Thực tế cho thấy, vị trí của NVCTXH còn yếu so với các ngành khác, thiếu cơ sở pháp lý trong việc cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, biện hộ, vận động chính sách,… Do vậy, phải luật hóa thì NVCTXH mới có đủ cơ sở pháp lý để tham gia hỗ trợ NLĐNC tiếp cận DVCTXH đạt hiệu quả cao.
Các quy định về cách thức tổ chức hỗ trợ tiếp cận về DVCTXH cũng ảnh hưởng lớn đến sử dụng DVCTXH. Với ĐTB= 3,48 tương ứng 18,8% ý kiến cho biết là rất ảnh hưởng và 27,4% là ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận DVCTXH của NLĐNC khu vực KTPNN. Như đã phân tích ở phần trên, ngân sách hỗ trợ cho phát triển nghề CTXH nói chung và phát triển mạng lưới cung cấp DVCTXH tại cộng đồng còn thiếu và yếu. Hệ thống chính sách liên quan và các quy định về cách thức tổ chức chưa phát triển đồng bộ và tương xứng với thành tựu phát triển kinh tế, cụ thể: mức độ bao phủ thực tế còn thấp, khả năng tiếp cận một số chính sách, chương trình còn hạn chế của nhiều nhóm thân chủ còn bất cập, thiếu đồng bộ, thiếu sự liên kết, chưa huy động nguồn lực và chưa bảo đảm tính bền vững. Đặc biệt, đối với NLĐNC khu vực KTPNN còn thiếu các chính sách, chương trình, dịch vụ để họ tiếp cận.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.19 với ĐTB= 3,47 cho thấy, các chương trình, chính sách cần quy định rõ về các đối tượng nào đủ điều kiện thụ hưởng chính sách. Đây là một trong những thành tố ảnh hưởng đến sử dụng DVCTXH của NLĐNC khu vực KTPNN. Bởi vì, trong các chương trình, chính sách quy định về đối tượng, điều kiện được hưởng cũng như nguồn lực tổ chức thực hiện. Trong những năm qua, nhà nước đã ban hành, bổ sung, điều chỉnh nhiều điểm mới trong các bộ luật, luật và các văn bản dưới luật nhằm mở rộng các đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội.
Tuy nhiên, một số chính sách liên quan đến NLĐNC chưa cân nhắc đầy đủ đến nhu cầu cần trợ giúp của họ nên họ gặp khó khăn trong quá trình tiếp cận dịch vụ. Mặt khác, với ĐTB= 3,03 cho biết độ bao phủ cũng là thành tố ảnh hưởng rất lớn và ảnh hưởng đến tiếp cận DVCTXH của NLĐNC khu vực KTPNN. Một số cán bộ xã phường cũng như NLĐNC chưa hiểu và nắm vững được hệ thống các văn bản, chính sách, chương trình của Đảng và nhà nước dành cho NLĐNC nên chưa kết nối, chuyển gửi họ đến các cơ sở cung cấp dịch vụ một cách hiệu quả nhất,
Bên cạnh đó, việc thực hiện các chính sách liên quan hỗ trợ người lao động, nhất là các nhóm NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN dễ bị tổn thương còn chưa hiệu quả. Công tác tổng kết tình hình chậm triển khai thực hiện một số chính sách, chương trình, đề án tạo việc làm, phát triển sản xuất để có cơ sở điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Một số chính sách can thiệp của Chính phủ còn thiếu và chưa phù hợp, hạn chế về nguồn lực thực hiện nên mức độ bao phủ đối tượng được thụ hưởng còn hẹp.
Mặt khác hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, hiện nay đã có những văn bản quy định, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội, nhưng thiếu các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn làm cơ sở pháp lý để thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ của các Trung tâm này. Đồng thời, trong quá trình cung cấp DVCTXH cũng gặp nhiều khó khăn vì thiếu các văn bản quy định cụ thể sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng và đoàn thể với các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH. Vì vậy ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận DVCTXH của NLĐNC khu vực KTPNN.
3.3.5.2. Mức độ tương quan giữa yếu tố cơ chế chính sách đến DVCTXH
Kết quả phân tích tương quan cho thấy, yếu tố cơ chế chính sách đưa vào mô hình nghiên cứu đều có tương quan chặt đến DVCTXH (với trị số p < 0,01). Nhìn chung, mức độ tương quan của yếu tố này đến từng DVCTXH là khác nhau. Mức độ tương quan của yếu tố này đến dịch vụ tư vấn, tham vấn với (r= -0,656*, p<0,00) là rất mạnh, tiếp đến là giới thiệu học nghề, việc làm và sinh kế với (r= 0,522**, p<0,00) cũng tương quan chặt đến yếu tố cơ chế chính sách, ngược lại các dịch vụ còn lại có tương quan ở mức độ yếu hơn (xem phụ lục 3.3.1.1). Điều này cho thấy, khi các yếu tố này thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi về khả năng sử dụng DVCTXH đối với NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN.
NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN đang đối diện với nhiều thách thức và là nhóm dễ tổn thương nhất trong tình hình dịch bệnh, khó tiếp cận với các chính sách ASXH và DVXH. Do vậy, các chương trình, chính sách ASXH, DVXH cũng cần tính
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh Hưởng Của Yếu Tố Năng Lực Đội Ngũ Đến Dịch Vụ Công Tác Xã Hội
- Tương Quan Giữa Yếu Tố Năng Lực Nhân Viên Công Tác Xã Hội Và Khả Năng Sử Dụng Dvctxh Của Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Mức Độ Tương Quan Giữa Yếu Tố Nguồn Lực Hỗ Trợ Đến Dvctxh
- Đào Tạo Nâng Cao Năng Lực Cho Đội Ngũ Nhân Viên Cung Cấp Dịch Vụ Công Tác Xã Hội
- Tổ Chức Thực Nghiệm Và Cách Đánh Giá Kết Quả Tác Động
- Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Biện Pháp Tăng Cường Hoạt Động Truyền Thông, Tác Động Trước Và Sau Thực Nghiệm (Nguồn: Số Liệu Khảo Sát Thực
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
đến các yếu tố di cư, và hỗ trợ NLĐNC tiếp cận được với các hình thức nhà ở xã hội, tạo điều kiện để trẻ em di cư có cơ hội tiếp cận đến giáo dục công,… góp phần ổn định cuộc sống của người di cư và đảm bảo được quyền con người, không ai bị bỏ lại đằng sau trong quá trình phát triển [123]. Để có được đầy đủ thông tin, cách nhìn bao quát về các nhóm dân số di cư phục vụ công tác hoạch định, xây dựng và đánh giá chính sách thì cần có thêm những cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn.
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy, yếu tố cơ chế chính sách đưa vào mô hình phân tích có ảnh hưởng đến DVCTXH nhưng mức độ ảnh hưởng đến từng dịch vụ là không giống nhau. Cụ thể: với hệ số Beta là -0,528 và p = 0,000 < 0,001. Điều này cho thấy, yếu tố này có ảnh hưởng đến DVCTXH và khi các yếu tố khác không đổi mà yếu tố thông tin truyền thông thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi đến biến phụ thuộc (C7 - DVCTXH) đến 27,7% (R2=0,277; p<0,001), còn lại là do các biến ngoài
mô hình và sai số ngẫu nhiên. Đồng thời thông qua kiểm định F trong bảng ANOVA, giá trị (sig) của kiểm định F là 0,000 < 0,05 (xem phụ lục 3.3.2.5). Như vậy, yếu tố cơ chế chính sách đưa vào mô hình hồi quy phù hợp và có ảnh hưởng đến DVCTXH.
Việc ứng dụng lý thuyết tiếp cận theo quyền trong luận án chỉ rõ, tùy theo bối cảnh kinh tế - xã hội để quy định rõ quyền của NLĐNC trong mỗi chương trình, dự án và dịch vụ. Điều này tạo cơ hội cho nhiều NLĐNC có thể tham gia vào quá trình phát triển, xây dựng và thực thi các chính sách công, thụ hưởng DVCTXH tại nơi đến. Đồng thời, cần nhìn nhận NLĐNC là tiểu hệ thống trong hệ thống tổng thể, do đó NLĐNC không thể tiếp cận được các DVCTXH hỗ trợ sẽ tác động ngược trở lại hệ thống làm cho hệ thống suy giảm và ảnh hưỏng tới sự phát triển xã hội mà trong lý thuyết hệ thống đã đề cập ở phần trên. Đây là vấn đề cần lưu ý trong quá trình phát triển hệ thống ASXH, hoạch định chính sách, các chương trình dịch vụ làm thế nào để theo từng lộ trình bao phủ được hết NLĐNC nói chung và NLĐNC làmviệc ở khu vực KTPNN nói riêng.
Tiểu kết chương 3
Qua việc khảo sát thực trạng và phân tích thực trạng DVCTXH với NLĐNC khu vực KTPNN từ thực tiễn TPHCM cho thấy, sự cần thiết phát triển mạng lưới cung cấp DVCTXH cho NLĐNC khu vực KTPNN cũng như các nhóm đối tượng có nhu cầu sử dụng DVCTXH tại cộng đồng. Thực tế cho thấy, các địa phương đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển nghề CTXH ở Việt Nam nói chung và ở TP.HCM nói riêng, nhiều hoạt động cung cấp DVCTXH đã đến được với NLĐNC, số lượng NLĐNC được cung cấp dịch vụ thông tin về nhà trọ an toàn; dịch vụ tư vấn, tham vấn; dịch vụ hỗ trợ học nghề, tạo việc làm sinh kế; dịch vụ hỗ trợ giáo dục; dịch vụ kết nối và chuyển gửi nguồn lực,... ngày càng nhiều hơn và đã có những chuyển biến rõ rệt. Các hoạt động hỗ trợ này đã khẳng định được vai trò của NVCTXH trong việc lên kế hoạch giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến NLĐNC. Điều này cho thấy tầm quan trọng và phạm vi tác động rộng lớn của nghề CTXH trong bối cảnh cuộc sống hiện nay.
Các dịch vụ CTXH với NLĐNC khu vực KTPNN ngày càng được chú trọng nhằm đảm bảo được quyền và tạo điều kiện thuận lợi để cho họ được sử dụng. Một số DVCTXH được NLĐNC đánh giá tương tốt như dịch vụ hỗ trợ thông tin nhà ở an toàn; dịch vụ huy động, kết nối nguồn lực; dịch vụ tư vấn, tham vấn,... cũng như thái độ thân thiện, biết lắng nghe chia sẻ, tôn trọng của nhân viên cung cấp DVCTXH. Tuy nhiên dịch vụ hỗ trợ tiếp cận giáo dục công lập không được NLĐNC đánh giá cao vì mức độ sử dụng còn thấp.
Dịch vụ CTXH tại cộng đồng được cung cấp chủ yếu là cơ sở công lập, các cơ sở ngoài công lập tham gia cung cấp còn ít. Đa số là các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đa dạng, thiếu nhiều DVCTXH mang tính chuyên môn sâu. Đây là sự nỗ lực rất lớn từ các đơn vị cung cấp DVCTXH đối với NLĐNC, bởi vì còn phụ thuộc vào cơ chế chính sách, nguồn lực tài chính,… của một số địa phương còn hạn hẹp nên sự hỗ trợ còn thiếu tính liên tục và chưa mang tính bền vững.
Dịch vụ CTXH với NLĐNC khu vực KTPNN được cung cấp bởi các NVCTXH chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp trong các cơ sở cung cấp dịch vụ công lập và ngoài công lập. Tuy nhiên, những DVCTXH được cung cấp vẫn chưa mang tính chuyên nghiệp cao, mạng lưới cung cấp DVCTXH ở các tại các cộng đồng nơi người dân cư trú còn ít. Điều này sẽ tác động không nhỏ đến khả năng tiếp cận DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN hiện nay.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thì cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cung cấp DVCTXH với NLĐNC. Mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến DVCTXH là khác nhau. Yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến DVCTXH là nguồn lực hỗ trợ còn hạn chế,
đặc biệt là mạng lưới cung cấp chưa đi vào chiều sâu, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng chưa dựa vào cộng đồng vẫn còn một số DVCTXH rất thiết thực đối với NLĐNC chưa được tiếp cận hoặc tiếp cận chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, năng lực đội ngũ nhân viên cung cấp dịch vụ chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành về CTXH, NVCTXH còn phải kiêm nhiệm không có đủ thời gian để trợ giúp cho NLĐNC sử dụng dịch vụ hiệu quả.
Mặc dù CTXH là một nghề còn khá mới ở Việt Nam, nhưng các hoạt động cung cấp về DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN đã có những tác động tích cực về mặt xã hội và mang ý nghĩa thực tiễn rất cao. Tuy nhiên, những hoạt động cung cấp DVCTXH ở tại cộng đồng còn thiếu, yếu và chưa mang tính chuyên nghiệp cao, cần có lộ trình để xây dựng một quy trình cung cấp DVCTXH chuyên nghiệp với một đội ngũ nhân viên cung cấp dịch vụ có đủ năng lực về kiến thức chuyên môn, kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp, hiểu rõ về triết lý và đạo đức nghề CTXH để cung cấp cho NLĐNC những dịch vụ phù hợp nhằm đảm bảo được quyền và tạo điều kiện cho NLĐNC khu vực KTPNN hòa nhập vào môi trường xã hội mới ngày càng tốt hơn.
Chương 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ KHU VỰC KINH TẾ PHI NHÀ
NƯỚC VÀ THỰC NGHIỆM BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
4.1. Giải pháp nâng cao khả năng sử dụng dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước
Nâng cao khả năng sử dụng DVCTXH đối với các đối tượng có nhu cầu sử dụng nói chung và đối với NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN nói riêng là vấn đề quan trọng mà tất cả các cơ sở, Trung tâm cung cấp dịch vụ đang hướng đến, nhất là trong bối cảnh hiện nay. DVCTXH đối với các nhóm yếu thế nói chung và NLĐNC khu vực KTPNN nói riêng bước đầu đã chú ý đến tính chuyên môn và các dịch vụ chuyên sâu của CTXH. Đây là nỗ lực rất lớn của Chính phủ và các tổ chức trong nước và quốc tế quan tâm đầu tư phát triển mạnh mẽ về nghề CTXH trong vòng hơn một thập niên trở lại đây. Việc phát triển các mô hình cung cấp DVCTXH đang nhận được nhiều sự ủng hộ từ Nhà nước, các tổ chức ban ngành, đoàn thể và cộng đồng xã hội. Chúng tôi cho rằng để nâng cao hiệu quả khả năng sử dụng DVCTXH đối với NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN, các trung tâm cung cấp dịch vụ, đơn vị chức năng của thành phồ cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
4.1.1. Nhóm giải pháp liên quan đến chính sách pháp luật
4.1.1.1. Cơ sở đề xuất
Về lý luận: Pháp luật và các chính sách xã hội là yếu tố đầu tiên chi phối đến các hoạt động xã hội cho NLĐNC, được thực hiện trên các văn bản, Luật, Nghị định, Thông tư của Chính phủ. Không có một tổ chức nào hoạt động ngoài khuôn khổ của pháp luật, các nội quy, quy định sẽ có cơ chế và chế độ để đảm bảo cho hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH được diễn ra có hiệu quả.
Chính sách pháp luật tạo tiền đề, khung pháp lý về quyền và nghĩa vụ, quy định đối tượng thực hiện và đối tượng thụ hưởng, cơ chế, mức độ, các loại hình dịch vụ hỗ trợ và những quy định cho đội ngũ cung cấp dịch vụ, nhà nước ban hành các văn bản, Nghị định, Quyết định, Thông tư,… làm cơ sở pháp lý về nghề CTXH và nhằm phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp DVCTXH cho các đối tượng ở cộng đồng, cũng như phát triển thêm các lĩnh vực bệnh viện, trường học điển hình như: (Đề án 32 về phát
triển nghề CTXH, Thông tư liên tịch, số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV; Thông tư 01/2017/TT-BLĐTBXH; Thông tư, số 07/2013/TT-BLĐTBXH; Thông tư liên tịch, số 09/2013/TTLT-BLĐTBXH-BNV,…)
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu cho thấy, DVCTXH đối với NLĐNC đã hình thành ở cộng đồng và được cung cấp bởi NVCTXH chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp. Tuy nhiên, NVCTXH chưa có một vị trí việc làm ổn định (bán chuyên trách), cùng lúc đảm nhận nhiều công việc, mức thu nhập còn thấp, thiếu cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, các loại hình dịch vụ cung cấp cho NLĐNC tại cộng đồng còn thiếu. Trong tình hình dịch bệnh xẩy ra cho thấy, chính sách, pháp luật và các chương trình, dịch vụ chưa bao phủ đến NLĐ nhất là NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN. Điều này ảnh hưởng đến quyền của NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN trong việc tiếp cận ASXH và DVCTXH ở đô thị. Do vậy, cần sớm hoàn thiện quy định về chính sách và pháp luật về nghề CTXH.
4.1.1.2. Giải pháp
Để thực hiện giải pháp này, cần tập trung vào các biện pháp sau:
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khuôn khổ pháp luật phát triển nghề CTXH, đặc biệt là vai trò, nhiệm vụ của cán bộ, viên chức, NVCTXH chưa được xác định cụ thể trong một số bộ luật có liên quan như: Bộ Luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật trẻ em,… Các văn bản quy phạm pháp luật phát triển nghề CTXH chưa được hệ thống hóa. Đặc biệt chưa có một luật riêng về nghề CTXH gây ra rào cản lớn trong quá trình cung cấp DVCTXH cũng như sự công nhận của công chúng, các tổ chức, xã hội có liên quan. Do vậy cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật công tác xã hội, nếu không có Luật về CTXH thì sẽ không thể phát triển đội ngũ làm nghề này.
- Cần sớm ban hành và có lộ trình bắt buộc thực hiện Quy điều đạo đức nghề CTXH cho những người làm CTXH nói chung và nhân viên cung cấp DVCTXH nói riêng. Hiện nay tại ở cộng đồng hay ở Trung tâm cung cấp DVCTXH chưa bắt buộc thực hiện đầy đủ các Quy điều đạo đức nghề CTXH nên phần nào có những khó khăn khi thực hiện cung cấp DVCTXH chuyên nghiệp. Bởi vì trong quá trình tác nghiệp NVCTXH chưa thực hiện tính bảo mật thông tin của khách hàng, nếu không có quy định rõ ràng vấn đề này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến lòng tin của khách hàng khi sử dụng và tác động đến tính chuyên nghiệp của DVCTXH. Bên cạnh đó, thiếu Quy điều đạo đức nghề sẽ khó quản lý và giám sát mối quan hệ giữa người cung cấp DVCTXH với khách hàng đảm bảo sự công bằng, minh bạch và bình đẳng.
- Cần phải xây dựng hệ thống, quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của cá nhân thực hành nghề CTXH, quyền và nghĩa vụ của người hành nghề CTXH, quy định đội ngũ người làm CTXH chuyên nghiệp, bảo đảm về số lượng, chất lượng. Sớm ban hành quy định pháp luật về thực thi sát hạch chuyên môn và chứng chỉ hành nghề CTXH bắt buộc trong một số lĩnh vực chuyên biệt của CTXH cũng như biểu giá các quy định về các DVCTXH để nhằm quản lý, giám sát chất lượng cung cấp DVCTXH của cán bộ, nhân viên cung cấp CTXH.
- Cần ban hành những văn bản pháp lý thống nhất về điều kiện thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể cơ sở cung cấp các loại hình DVCTXH. Đồng thời ban hành quy trình triển khai NLĐNC tiến tới ban hành những quy trình cụ thể hơn về các hoạt động cung cấp DVCTXH như quy trình quản lý trường hợp, can thiệp khủng hoảng hay tham vấn,…Cần áp dụng mô hình quản lý ca đối với NLĐNC và chú ý tới: quy trình quản lý, cách thức lưu trữ hồ sơ, biểu mẫu dịch vụ được cung cấp thực hiện nguyên tắc đạo đức nghề của nhân viên quản lý ca. Để hỗ trợ một cách tích cực cho NLĐNC có thể giải quyết các vấn đề của mình một cách hiệu quả, qua đó giúp họ hòa nhập tốt với cộng đồng tại nơi đến.
- Hoàn thiện quy trình, tiêu chuẩn về DVCTXH, xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thông thông tin, quản lý, giám sát các đối tượng có liên quan và vai trò của NVCTXH trong các hoạt động này góp phần nâng cao chất lượng của nghề CTXH, kiểm tra thanh tra các hoạt động nghề CTXH.
- Tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ASXH, bảo đảm tính thống nhất đồng bộ trong các quy phạm pháp luật về lao động và việc làm,về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, pháp luật về bảo trợ xã hội, đẩy mạnh các chương trình giảm nghèo,… cho phù hợp với thực tiễn, với nhu cầu của NLĐNC.
- Tăng cường sự quản lý của nhà nước về nghề CTXH nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động cung cấp DVCTXH thông qua việc quy định các cơ quan điều phối và các cơ quan phối hợp về quản lý cung cấp DVCTXH, quy định cơ chế giám sát, đánh giá chất lượng cung cấp dịch vụ, quy định cơ chế phối hợp giữa các cơ quan điều phối, phối hợp và các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực CTXH. Nhằm tăng cường gắn kết giữa lý luận vào thực tiễn cũng như thúc đẩy thực hành, thực tập về CTXH có chất lượng và hiệu quả cao, đảm bảo quyền lợi của nhân viên CTXH.