đảm bảo cho việc khống chế độ tuổi hành nghề QTV một cách gián tiếp. Ví dụ để hành nghề Luật sư và Kiểm toán viên ít nhất người tốt nghiệp đại học phải có trên 03 năm hoàn thành khoá học và được cấp chứng chỉ. Các ngành khác đòi hỏi phải có 05 năm kinh nghiệm.
- Phải có hồ sơ đăng ký hành nghề. Điều kiện này cho thấy, nghề QTV không phải là một nghề tất yếu có được khi đạt đến những tiêu chuẩn nhất định của nó, mà cần phải có sự thể hiện mong muốn tham gia hành nghề thông qua động thái chuẩn bị và nộp hồ sơ đăng ký hành nghề. Đây được xem là điều tất yếu không chỉ đối với nghề QTV mà còn mở rộng ra ở hầu hết các ngành nghề khác. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích để thấy rõ rằng bản thân nghề QTV là một nghề mang tính phái sinh của các nghề Luật sư, Kiểm toán viên… Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc những người trở thành QTV sẽ có thành tích xuất sắc trong các nghề cơ sở kể trên và ngược lại. Thực tế này chỉ cho thấy, những người đang hành nghề QTV cũng đang hành nghề những nghề cơ sở kể trên mà thôi.
Thứ hai, điều kiện tham gia thủ t c phá sản. Được cấp chứng chỉ chỉ là điều kiện cần, được chỉ định tham gia vào thủ tục phá sản mới là điều kiện đủ thể một QTV chính thức hành nghề. Pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định tương đối chi tiết về những điều kiện để được chỉ định tham gia này. Sự ghi nhận đó hoàn toàn hợp lý vì bản thân QTV có số lượng gia tăng theo các năm, bên cạnh đó còn có các Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản cũng có thể tham gia thủ tục phá sản. Mặc dù trên thực tế cho đến nay không có quy định nào cho thấy trường hợp nào được lựa chọn QTV và trường hợp nào được lựa chọn Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Thay vào đó, việc lựa chọn này phụ thuộc vào Toà án. Tuy nhiên, tựu chung lại việc chỉ định QTV hay Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đều phải dựa vào những tiêu chuẩn nhất định. Trong trường hợp của một QTV, các tiêu chuẩn này bao gồm:
- QTV phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Đây là điều kiện mang tính tối thiểu và đương nhiên. ản thân một cá nhân muốn trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật luôn phải đáp ứng yêu cầu về năng lực của chủ thể. Trong đó năng lực hành vi là trọng tâm, bên cạnh năng lực pháp lý. QTV tham gia vào quan hệ pháp luật phá sản với vai trò là trung gian – vốn là một quan hệ pháp luật phức tạp, yêu cầu về có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là điều kiện tất yếu.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan. Đây là quy định mang tính định tính vì cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp lý nào hướng dẫn chi tiết về việc xem xét, đánh giá phẩm chất đạo đức, trách nhiệm, liêm khiết và trung thực ở các cấp độ tốt hay có ý thức. Do đó, điều kiện này thường chỉ xem xét chung chung.
- Phải có chứng chỉ hành nghề QTV. Chứng chỉ hành nghề QTV được cấp bởi Bộ Tư pháp theo trình tự thủ tục được quy định tại Điều 4, Nghị định 22/2015/NĐ- CP. Người có đủ điều kiện đăng ký cấp chứng chỉ phải thuộc một trong các nghề được thống kê tại Khoản 1, Điều 12, Luật Phá sản năm 2014. Chứng chỉ này sau khi được cấp phải công bố danh sách trên website của Bộ Tư pháp. Điều kiện này đã được phân tích chi tiết ở trên. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành cũng lưu ý rằng, các chứng chỉ tiền đề để đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề QTV như: chứng chỉ hành nghề Luật sư; chứng chỉ hành nghề Kiểm toán viên… khi bị tước quyền thì cũng đồng nghĩa với việc chứng chỉ QTV không còn hiệu lực. Khi đó, tất yếu chứng chỉ QTV cũng không còn hiệu lực. Quy định này càng làm rõ hơn đặc điểm ―phái sinh‖ của nghề QTV.
- Người có chứng chỉ hành nghề QTV phải đăng ký hành nghề. Khi đã được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề, QTV cần phải đăng ký hành nghề tại địa phương. Sau khi thực hiện đủ các thủ tục tại Điều này, QTV sẽ được đưa vào danh sách của địa phương và công bố công khai. Toà án chỉ tiến hành chỉ định QTV trong danh sách này. Như vậy, có chứng chỉ mới chỉ là điều kiện cần, việc đăng ký nhằm thể hiện tên trong danh sách QTV của địa phương mới là điều kiện đủ để QTV được chỉ định. Pháp luật cũng cho phép QTV sau khi được ghi danh có thể hành nghề trên toàn quốc. Ghi nhận này có nghĩa sẽ có những QTV có chứng chỉ hành nghề nhưng lại không được tham gia hành nghề do không đăng ký. Điều này sẽ khác với một số quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore khi nộp hồ sơ cấp chứng chỉ hành nghề QTV đồng thời cũng chính là đăng ký hành hành nghề QTV[16],[12]. Vì bản chất chứng chỉ hành nghề QTV chỉ có tác dụng khi được chỉ định tham gia thủ tục phá sản. Một người không thể làm gì khác với chứng chỉ này nếu không đăng ký tham gia hành nghề như quy định ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, điều kiện này có thể nhất thể hoá với điều kiện có chứng chỉ hành nghề như một số quốc gia kể trên.
- Được người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đề xuất chỉ định QTV. Pháp luật hiện hành ghi nhận chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề xuất Thẩm phán chỉ định QTV để đảm bảo quyền lợi cho mình cũng như của người khác trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản đối với DN, HTX. Quyền này được thể hiện như một nội dung quan trọng trong đơn yêu cầu. Quy định này hoàn toàn có sự đồng nhất với hầu hết các quốc gia trên thế giới có tồn tại chế định QTV. Điều này giúp các chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đề xuất được QTV uy tín mà họ mong muốn để đảm bảo thủ tục phá sản được diễn ra an toàn, nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành không đề cập đến việc giải quyết các đề xuất QTV trong trường hợp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã nộp và không có nội dung này hoặc các trường hợp trong quá trình sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mà những người có liên quan đến vụ việc phá sản mới đề xuất chỉ định QTV.
- QTV không có lợi ích liên quan đến vụ việc phá sản. Điều kiện này hoàn toàn trùng khớp với các quốc gia trên thế giới. Mục đích cuối cùng nhằm đảm bảo tính khách quan trong thực thi nhiệm vụ của QTV. Tuy nhiên, cơ chế xác minh ―lợi ích liên quan‖ hiện nay chưa được pháp luật ghi nhận cụ thể. Do đó, thực tế điều kiện này hoàn toàn phụ thuộc vào tính trung thực của QTV khi kê khai các thông tin.
- QTV không phải là người thân thích của người tham gia thủ tục phá sản. Đây là một quy định nhân thân và có mục đích giống với điều kiện không có lợi ích liên quan đến vụ việc phá sản. Pháp luật Việt Nam cũng có sự kế thừa nội dung này ở pháp luật một số quốc gia trên thế giới về tính ―vô nhân xưng‖ của QTV. Theo đó, tính ―vô nhân xưng‖ ở đây đề cập đến việc ngoài là danh xưng QTV với tư cách trung gian giải quyết thủ tục phá sản và điều phối nợ chung, thì QTV không được phép có thêm một nhân xưng nào khác với các bên tham gia thủ tục phá sản. Tuy nhiên, pháp luật về phá sản chưa làm rõ các nội hàm của cụm từ ―người thân thích‖ như: thân thích là người có quan hệ thân quen hay ý chỉ quan hệ gia đình, họ tộc?; mức độ xác định thân thích như thế nào?; hay nếu người trong dòng tộc thì có phải xác định mức độ của phả hệ hay không? Cơ bản trên thực tế nội dung này được xác định dựa trên quan hệ gia đình. Nhưng như vậy chưa hẳn đã bao quát được các mối quan hệ ―thân thích‖ của QTV.
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Pháp Luật Phá Sản
- Có M T Số Quốc Gia Ở Châu Âu Ti N Hành Cấp Đi M Cho Quản Trị Viên, Thông Thường Thang Đi M
- Lược Sử Hình Thành Và Phát Triển Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên.
- Các Quyền V Nghĩa V Chung Của Quản Tài Viên
- Thực Tiễn Quy Định Về Trách Nhiệm Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Luật Phá Sản
- Thực Tiễn Quy Định Về Mối Quan Hệ Của Quản Tài Viên Với Các Chủ Thể Khác Theo Pháp Luật Phá Sản
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
- QTV đang không bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Biện pháp xử lý hành chính theo ghi nhận của pháp luật hiện hành là biện pháp được áp dụng đối với
cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây là điều kiện đương nhiên, vì những đối tượng phải chịu các biện pháp xử lý hành chính cũng không thể đủ các tiêu chuẩn về đạo đức để hành nghề QTV. Quy định này cho thấy sự tính toán của nhà làm luật vì nếu chỉ sử dụng quy định về không đang truy cứu trách nhiệm hình sự thì vẫn còn bỏ sót những đối tượng thuộc nhóm bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính này.
Như vậy, có thể thấy pháp luật về phá sản Việt Nam hiện hành đã có những quy định tương đối đầy đủ về điều kiện hành nghề của QTV cũng như việc chỉ định QTV cho một thủ tục phá sản cụ thể. So với quy định về Tổ quản lý, thanh lý tài sản được ghi nhận tại Luật Phá sản năm 2004 được hình thành với một tập thể gồm: Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; Một cán bộ của Toà án; Một đại diện chủ nợ; Đại diện hợp pháp của DN, HTX bị mở thủ tục phá sản; Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì Thẩm phán xem xét, quyết định. Cơ cấu tổ chức này cho thấy một liên kết lỏng lẻo, chủ yếu đề cao tính đại diện thay vì chú trọng vào chuyên môn. Nên trên thực tế hoạt động đã gây ra những phiền toái thậm chí là cản trở đối với thủ tục phá sản. Ngược lại, với những quy định về tiêu chuẩn hành nghề QTV như phân tích ở trên đã cơ bản thiết lập một thiết chế chuyên nghiệp, chú trọng vào các đòi hỏi chuyên môn để thực hiện quản lý và thanh lý tài sản một cách chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các quy định này chưa giải quyết được vấn đề gây tranh cãi khi nhận định QTV là một nghề độc lập hay là một nghề mang tính kiêm nhiệm. Vì điều kiện tiên quyết để được cấp chứng chỉ QTV là phải đang và có thâm niên hành nghề luật sư, kế toán, kiểm toán viên. Như vậy, bản chất đây là một nghề phụ - các nghề điều kiện kể trên là nghề chính.
3.2.2. Thực tiễn quy định về quyền và nghĩa vụ của quản tài viên theo luật phá sản
So với chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004, QTV với tư cách là một cá nhân hành nghề sẽ dễ dàng trong xác định và thực thi quyền và nghĩa vụ của mình. Vì quyền và nghĩa vụ là trung tâm của địa vị pháp lý, do đó việc xác định này có ý nghĩa rất quan trọng. Tổ quản lý, thanh lý tài sản là một tập thể có nhiều đại diện của các bên tham gia thủ tục phá sản, việc quy định
quyền và nghĩa vụ không được tập trung. Việc thực thi quyền và nghĩa vụ cũng gặp rất nhiều cản trở do các thành viên của tổ mang tính kiêm nhiệm nên không mặn mà với các nghĩa vụ. Đồng thời vì là kiêm nhiệm nên khi vướng lịch công tác của vị trí đang đảm nhiệm, các thành viên trì hoãn việc nhóm họp Tổ để thực hiện quyền và nghĩa vụ khiến hoạt động của tổ thiếu ổn định, từ đó kéo dài vụ việc phá sản.
Quyền và nghĩa vụ của QTV theo pháp luật về phá sản hiện hành của Việt Nam cũng được chia thành 03 nhóm: nhóm những quyền; nhóm những nghĩa vụ và nhóm vừa quyền vừa nghĩa vụ.
3.2.2.1. Các quyền của quản tài viên
Pháp luật hiện hành về phá sản không có điều khoản cụ thể quy định riêng về quyền của QTV. Tuy nhiên, các quyền này được thể hiện ở một số điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, quyền được thuê cá nhân, tổ chức thực hiện công việc theo quy định của pháp luật. Quyền này cho phép một QTV có thể thuê khoán các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động kiểm kê, bảo quản tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và hỗ trợ một số hoạt động khác trong thực hiện thủ tục phá sản. Quyền này xuất phát từ chính bản chất hoạt động của QTV mang tính cá nhân. Do đó, QTV sẽ không thể thực hiện được hết tất cả các nội dung liên quan đến quản lý và thanh lý tài sản. Việc thuê các tổ chức, cá nhân khác thực hiện những phần việc là một giải pháp hữu hiệu khắc phục yếu điểm này của QTV. Tuy nhiên, pháp luật không có quy định chi tiết hơn về những công việc nào thì QTV được thuê, do đó có thể hiểu đây là quyền tự quyết định của QTV khi thấy cần thiết. Hoạt động phổ biến nhất là thuê các cá nhân, tổ chức bảo vệ tài sản sau khi kiểm kê. Chi phí cho hoạt động thuê này cũng nằm trong chi phí cho QTV. Do đó, thực chất chi phí nhận được của QTV phải trừ đi tiền thuê cá nhân, tổ chức thực hiện công việc theo quy định của pháp luật. Tài sản càng lớn và thủ tục càng kéo dài thì chi phí này càng lớn.
Thứ hai, quyền được nhận chi phí và thù lao. Quyền này được ghi nhận cụ thể tại Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP. Có thể thấy, hoạt động của QTV là hoạt động nghề nghiệp mang tính dịch vụ, do đó nhận chi phí và thù lao là quyền phải được đảm bảo thực hiện của QTV. Do đó, vấn đề chi phí cho QTV được xác định là một trong những vấn đề quan trọng trong thực hiện thủ tục phá sản. Điều này không chỉ để đảm bảo quyền được hưởng các giá trị lao động của QTV mà còn thể hiện nghĩa vụ phải chi trả phí cho QTV của các bên tham gia thủ tục phá sản. Cơ sở để đo lường chi phí được pháp luật hiện hành xác định dựa trên ba vấn đề lớn: (1) Thời
gian QTV sử dụng để thực hiện nhiệm vụ; (2) Công sức của QTV trong việc thực hiện nhiệm vụ; (3) Kết quả thực hiện nhiệm vụ của QTV. Cách xác định này hoàn toàn hợp lý và có vai trò bổ khuyết cho nhau vì nếu chỉ dựa vào thời gian QTV sử dụng để thực hiện nhiệm vụ thì sẽ xảy ra hiện tượng QTV cố tình kéo dài thời gian xử lý ra để hưởng chi phí lớn hơn. Ngược lại, nếu chỉ sử dụng tiêu chí công sức thì rất khó đo lường và nếu chỉ sử dụng mỗi kết quả thực hiện nhiệm vụ của QTV sẽ không thấy được thời gian và công sức mà QTV bỏ ra cho nhiệm vụ của mình.
Bên cạnh đó, chi phí QTV được thanh toán từ giá trị tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán. Chi phí QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản bao gồm thù lao QTV, và chi phí khác. Điều này cho thấy, chủ nợ và con nợ là đối tượng phải chịu trách nhiệm về chi phí của QTV. Trong đó, thù lao được lấy từ việc thanh lý sản nghiệp phá sản. Sản nghiệp phá sản chính là tài sản của cả con nợ và chủ nợ. Thanh lý tài sản để trả chi phí cho QTV sẽ làm cho tài sản này giảm xuống, quyền sở hữu của cả hai đều bị ảnh hưởng.
Cách chi trả thù lao cho QTV cũng được pháp luật hiện hành ghi nhận với ba hình thức gồm: chi trả theo giờ làm việc của QTV; Mức thù lao trọn gói và Mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của DN, HTX bị tuyên bố phá sản thu được sau khi thanh lý. Việc quy định đa dạng hình thức chi trả này cho phép QTV lựa chọn phương thức nào có lợi nhất. Ví dụ đối với thủ tục phá sản bị kéo dài, phương thức thanh toán theo giờ làm việc sẽ mang lại lợi thế cho QTV. Ngược lại, với vụ việc phá sản lớn thì phương thức thanh toán dựa trên xác định phần trăm trong tổng giá trị tài sản của DN lại chiếm ưu thế. Ngoài ra, để đề phòng trường hợp DN, HTX đang giải quyết thủ tục phá sản thoát khỏi khả năng mất thanh toán thì pháp luật cũng có quy định mức thù lao do Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản và QTV thỏa thuận trên cơ sở xem xét, áp dụng căn cứ kể trên. Trong trường hợp Hội nghị chủ nợ và QTV có thỏa thuận riêng thì mức thù lao được áp dụng theo thỏa thuận đó.
Tuy nhiên, Nghị định 22/2015/NĐ-CP cũng chưa rõ ràng trong cách xác định thù lao QTV, chẳng hạn như đối với cách tính theo giờ làm việc thì mức tính thù lao mỗi giờ là bao nhiêu. Nếu tính theo mức thù lao trọn gói thì cá nhân, tổ chức nào xác định mức trọn gói này, sự thỏa thuận ra sao cũng chưa được quy định cụ thể. Cách tính thù lao QTV cũng chưa được quy định theo từng giai đoạn của thủ tục tuyên bố phá sản. Mặc dù Nghị định 22 có quy định trong trường hợp tòa án ra
quyết định đình chỉ giải quyết phá sản theo Điều 86 Luật Phá sản thì thẩm phán và QTV thỏa thuận mức thù lao, nhưng cũng không đề cập đến trường hợp nếu không đạt được thỏa thuận thì giải quyết như thế nào. Hoặc như trong trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có đề xuất chỉ định QTV thì sẽ thỏa thuận với ai về chi phí.
Thứ ba, quyền được yêu c u cung cấp thông tin. Cho đến nay, pháp luật thực định về phá sản không trực tiếp quy định về các quyền được yêu cầu cung cấp thông tin của QTV. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền này được đảm bảo bởi nghĩa vụ phải cung cấp thông tin của các chủ thể được quy định tại khoản 1, Điều 7, Luật Phá sản năm 2014. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc phá sản có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc phá sản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản, trong đó bao gồm cả QTV. Quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để ràng buộc các chủ thể nắm thông tin phải có bổn phận cung cấp thông tin khi có yêu cầu hoặc mở rộng ra bao gồm cả tự chủ động cung cấp thông tin.
Bên cạnh đó, để đảm bảo nghĩa vụ này được thực thi và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của QTV được đảm bảo, việc xác định chế tài cho các cá nhân, tổ chức từ chối cung cấp thông tin cũng được xác định tại khoản 2, Điều 7 của Luật Phá sản năm 2014. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được tài liệu, chứng cứ theo quy định phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do, nếu cố ý không cung cấp tài liệu, chứng cứ mà không có lý do chính đáng thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Như đã phân tích ở phần lý luận, thông tin là nguyên liệu đầu vào quan trọng nhất cho hoạt động của QTV, do đó thiếu sót các quy định pháp luật trực tiếp ghi nhận về quyền tiếp cận thông tin là một cản trở cho QTV. Mặc dù pháp luật đã có ghi nhận về nghĩa vụ cung cấp thông tin và những chế tài cho những chủ thể từ chối nghĩa vụ này như phân tích ở trên. Tuy nhiên, trong một quan hệ pháp luật, quyền của chủ thể này được bảo đảm bởi nghĩa vụ của chủ thể khác chứ không thể dùng nghĩa vụ của chủ thể này để thay thế cho quyền của chủ thể khác.
3.2.2.2. Các nghĩa v của quản tài viên
Pháp luật hiện hành có ghi nhận các nghĩa vụ mang tính độc lập của QTV trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của thủ tục phá sản bao gồm:
Thứ nhất, tuân thủ nguyên t c hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Các nguyên tắc này mang tính cơ bản và tất yếu gồm những nghĩa vụ chung chung như:
(1) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; (2) Tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp QTV; (3) Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan; (4) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề. Đây là những nghĩa vụ mang tính nghiễm nhiên của một chủ thể pháp luật. Đặc biệt, QTV tham gia vào thủ tục phá sản với tư cách là một thụ uỷ pháp lý và có vai trò quyết định đến sự thành công của thủ tục phá sản, do đó những nghĩa vụ cơ bản này phải tuyệt đối được ghi nhận để thực hiện trên thực tế.
Thứ hai, chịu trách nhiệm về hoạt đ ng nghề nghiệp của m nh theo quy định của pháp luật về phá sản. Đây là nghĩa vụ yêu cầu QTV phải luôn có tinh thần trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của mình nhằm đạt được tính hiệu quả trong giải quyết thủ tục phá sản được chỉ định. Mặc dù vấn đề QTV có thực sự được xem là một nghề độc lập hay không – chủ yếu đến từ điều kiện hành nghề và chi phí, tuy nhiên nếu dựa vào bản chất của công việc, thì QTV hoàn toàn là một hoạt động nghề nghiệp độc lập. Chính vì thế, sự ghi nhận về tinh thần trách nhiệm là cơ sở để đảm bảo sự tận tuỵ của QTV với bổn phận pháp lý của mình.
Thứ ba, k báo cáo, văn bản về k t quả thực hiện quyền, nghĩa v của mình theo quy định của pháp luật về phá sản. Đây là những nghĩa vụ mang tính kỹ thuật của QTV trong thực thi nhiệm vụ được pháp luật ghi nhận. QTV hoạt động nghề nghiệp mang tính độc lập tương đối. Tính độc lập thể hiện ở chỗ được trao quyền và tự quyết trong phạm vi các quyền được trao. Tính tương đối ở chỗ phải đặt dưới sự giám sát của Toà án và các bên liên quan trong thủ tục phá sản. Nghĩa vụ phải báo cáo và ký các báo cáo liên quan đến quá trình và kết quả thực hiện thủ tục là bổn phận để duy trì tính tương đối đó.
Thực chất nghĩa vụ ký báo cáo cũng là một hoạt động tất yếu trong thực hiện nhiệm vụ của QTV, vì trong môi trường pháp lý Việt Nam, giá trị của các văn bản phải được xác lập bởi chữ ký. Chữ ký của QTV trong trường hợp này vừa giúp xác lập giá trị nội dung của các văn bản đó vừa là cơ sở để xem xét trách nhiệm của QTV đối với nhiệm vụ. Ở các quốc gia trên thế giới như Trung Quốc; Hàn Quốc QTV sẽ được cấp con dấu khi được chỉ định và thu hồi khi kết thúc nhiệm vụ. Con dấu này sẽ thay chữ ký hoặc cùng với chữ ký đại diện cho địa vị pháp lý của QTV.