Vai Trò, Ý Nghĩa Của Pháp Luật Về Quản Lý Tài Sản Phá Sản

chặn các giao dịch có dấu hiệu nói trên, đồng thời thu hồi các tài sản chuyển giao bất hợp pháp nhằm tối đa hóa giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ. Tuy nhiên, việc thực hiện biện pháp tuyên bố giao dịch vô hiệu là không dễ dàng bởi trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản, doanh nghiệp vẫn có quyền được thiết lập các giao dịch dân sự. Điều quan trọng ở đây là phải nhận biết được các dấu hiệu của một giao dịch mang tính lẩn tránh, tẩu tán tài sản. Như vậy, biện pháp tuyên bố giao dịch vô hiệu phải đồng thời sẽ là công cụ để thỏa mãn các mục đích rất khác nhau của các chủ thể khác nhau. Một bên là mong muốn tẩu tán tài sản thông qua giao dịch hợp pháp hoặc là thực hiện các giao dịch hợp pháp thực sự nhằm tiếp tục hoạt động kinh doanh/phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ và hai là mong muốn bảo toàn tài sản để thu hồi nợ của các chủ nợ. Do đó, các quy định về tuyên bố giao dịch vô hiệu phải đồng thời thực hiện tốt được mục tiêu điều chỉnh nói trên.

+ Áp dụng biện pháp hẩn cấp tạm thời:

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được coi là một biện pháp hữu hiệu trong việc bảo toàn tài sản cho doanh nghiệp mắc nợ. Biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được áp dụng trên cơ sở yêu cầu của các bên liên quan theo quy định của pháp luật trong một số trường hợp như biện pháp kê biên, niêm phong tài sản nếu thấy có dấu hiệu doanh nghiệp chuyển dịch, tẩu tán tài sản; phong tỏa tài sản của doanh nghiệp áp dụng khi có dấu hiệu thanh toán, chuyển tiền không đúng quy định, hoặc thanh toán ưu tiên cho một chủ nợ nào đó. Biện pháp này đặc biệt quan trọng với các chủ nợ là ngân hàng vì họ có thể lợi dụng ưu thế của mình để thu hồi nợ riêng rẽ. Biện pháp niêm phong kho, quỹ, thu giữ và quản lý sổ kế toán của doanh nghiệp nếu có dấu hiệu sửa chữa, phi tang sổ sách, làm sai lệch các số liệu kế toán, chứng từ, hợp đồng. Biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng có thể là cấm hoặc buộc doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có liên quan không được hoặc phải thực hiện một số hành vi nhất định nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.

+ Bù trừ nghĩa vụ:

Bù trừ nghĩa vụ là phương thức quản lý tài sản phá sản cho phép chủ nợ và con nợ được thực hiện việc bù trừ nghĩa vụ tài sản với nhau đối với các giao dịch xác lập trước thời điểm bắt đầu thủ tục phá sản. Việc bù trừ nghĩa vụ chỉ diễn ra đối với các nghĩa vụ về tài sản cùng loại và tương đương. Trường hợp không tương đương thì các bên có thể thanh toán cho nhau phần chênh lệch. Mặc dù đây được xem là biện pháp khá phổ biến trong thực tiễn kinh doanh giữa các doanh nghiệp, tuy nhiên, luật phá sản cần thiết phải có những quy định cụ thể để tránh trường hợp doanh nghiệp lạm dụng biện pháp này để tẩu tán tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán với đối tác.

2.2.3. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về quản lý tài sản phá sản

Pháp luật về quản lý tài sản phá sản có một vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với quá trình giải quyết các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Có thể thấy pháp luật về quản lý tài sản phá sản có vai trò, ý nghĩa cụ thể như sau:

Thứ nhất, pháp luật về quản lý tài sản phá sản góp phần bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình tiến hành các thủ tục phá sản cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ.

Trong quá trình quản lý tài sản phá sản, chủ thể có thẩm quyền quản lý tài sản phá sản phải thực hiện rất nhiều thủ tục như: hòa giải giữa chủ nợ và con nợ, xác minh tài sản của con nợ, ngăn chặn các hành vi tẩu tán tài sản, gây thất thoát tài sản của con nợ, tổ chức bán đấu giá tài sản, phân chia tài sản của con nợ theo Quyết định của Thẩm phán v.v... Đây là các biện pháp vô cùng quan trọng giúp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, qua đó, góp phần bảo vệ lợi ích cho các chủ nợ. Do vậy, pháp luật về quản lý tài sản phá sản càng rõ ràng, càng minh bạch, càng dễ

thực hiện sẽ góp phần không nhỏ để đạt được các mục tiêu nói trên của việc quản lý tài sản phá sản.

Thứ hai, pháp luật về quản lý tài sản phá sản góp phần tạo ra một trật tự pháp lý cho quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, góp phần làm cho hoạt động quản lý tài sản phá sản diễn ra một cách có trình tự, an toàn, tránh việc tẩu tán tài sản hoặc thất thoát tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Có thể thấy, quản lý tài sản phá sản được coi là ở vị trí quan trọng, cốt yếu của pháp luật về phá sản nói chung bởi suy cho cùng, mục tiêu cuối cùng của các thủ tục phá sản đều liên quan mật thiết đến tài sản phá sản. Trong quá trình quản lý tài sản phá sản, có rất nhiều thủ tục, hoạt động liên quan đến quản lý tài sản phá sản sẽ được thực hiện, tiến hành theo các quy định pháp luật nhằm bảo đảm công khai, minh bạch; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Do đó, nếu pháp luật về quản lý tài sản phá sản không minh bạch, không rõ ràng, không được xây dựng dựa trên các trình tự, thủ tục nhất định thì quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có thể bị ảnh hưởng. Việc xác định cụ thể tài sản phá sản cũng góp phần làm căn cứ xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã đến mức có thể tuyên phá sản ngay hay còn cần áp dụng thủ tục pháp lý khác, đồng thời nó xác định việc áp dụng các biện pháp bảo toàn, quản lý tài sản có lợi nhất cho chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ.

Thứ ba, pháp luật về quản lý tài sản phá sản cũng góp phần vào sự hình thành và phát triển của các chủ thể cung cấp dịch vụ quản lý tài sản phá sản một cách chuyên nghiệp.

Có thể thấy, ở các nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc, Cộng hòa Liên bang Đức v.v... sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đã dẫn đến sự hiện diện của nhiều thiết chế phi chính phủ do các nhà kinh tế thành lập. Nhiều hoạt động vốn thuộc chức năng của Nhà nước cũng đã được xã hội hóa ở mức độ

cao trong những hoạt động mang tính nghề nghiệp không nhất thiết phải sử dụng đến quyền lực nhà nước. Do đó, ngoài các tổ chức xã hội nghề nghiệp các nhà kinh tế còn có các tổ chức khác, trong đó có các tổ chức của các chuyên gia quản lý tài sản. Đồng thời, đội ngũ luật sư với số lượng lớn và có tính chuyên nghiệp cao tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, đặc biệt là đội ngũ luật sư chuyên trách về phá sản. Điều đó giải thích tại sao ở các nước này, chủ thể quản lý tài sản lại là các cá nhân chuyên nghiệp hành nghề một cách tự do chứ không phải là các cán bộ trong các cơ quan nhà nước. Như vậy, có thể thấy, pháp luật về quản lý tài sản phá sản sẽ góp phần hình thành nên một ngành, nghề đầu tư, kinh doanh mới là cung cấp dịch vụ quản lý tài sản phá sản nhằm đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh doanh trong nền kinh tế.

Thứ tư pháp luật về quản lý tài sản phá sản góp phần tạo sự thuận lợi cho quá trình thi hành các quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong suốt quá trình diễn ra tố tụng phá sản.

Có thể thấy, giữa hoạt động quản lý tài sản phá sản trong tố tụng phá sản và hoạt động thi hành án dân sự có một điểm tương đồng là đều hướng tới mục đích thu hồi các giá trị vật chất, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người có quyền và lợi ích hợp pháp. Chính vì vậy hoạt động quản lý tài sản phá sản có mối quan hệ mật thiết với hoạt động thi hành án dân sự, góp phần đảm bảo cho công tác thi hành án dân sự có thể thuận lợi thực hiện trên thực tế.

Tiểu kết Chương 2


Trên cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý, trong Chương này, tác giả đã lý giải về khái niệm, đặc điểm của tài sản phá sản, quản lý tài sản phá sản; khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò và ý nghĩa của pháp luật về quản lý tài sản phá sản, từ đó, có thể rút ra một số kết luận như sau:

Thứ nhất, tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán là một khối thống nhất, bao gồm động sản, bất động sản, các khoản nợ… rất có nguy cơ bị thất thoát, bị các đối tượng trục lợi, tẩu tán, nên cần có sự quản lý kịp thời để bảo toàn, bảo vệ khối tài sản này.

Thứ hai, quản lý tài sản phá sản bao gồm tổng thể các biện pháp pháp lý nhằm bảo toàn khối tài sản phá sản của doanh nghiệp mắc nợ khi bị mở thủ tục phá sản theo các trình tự, thủ tục theo luật định.

Thứ ba, nội dung của pháp luật về quản lý tài sản phá sản chủ yếu được thể hiện thông qua các quy định về việc xác định khối tài sản phá sản, phạm vi các tài sản của doanh nghiệp được coi là tài sản phá sản; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong quá trình quản lý tài sản phá sản và trình tự, thủ tục hay các biện pháp quản lý tài sản phá sản.

Qua đó, Chương 2 đã cung cấp các cơ sở lý luận quan trọng cho việc tác giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở Chương 3.

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


3.1. Sơ lược tình hình phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Luật Phá sản năm 2014 được ra đời đã tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ việc phá sản nhanh hơn, chính xác hơn, từng bước thể hiện vai trò là một trong những công cụ pháp lý quan trọng tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua gần 07 năm triển khai thực thi, việc giải quyết các vụ án phá sản trong thực tiễn đã bộc lộ vướng mắc, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Theo báo cáo tổng kết công tác hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao, số lượng vụ việc phá sản được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 3.1. Số lượng vụ việc phá sản qua các năm

(Nguồn: Báo cáo tổng ết năm của ngành t a án)


Năm

Số vụ thụ lý

Số vụ ra quyết định không mở thủ tục phá sản

Số vụ ra quyết

định mở thủ tục phá sản

Số vụ

tuyên bố phá sản

2015

202

39

64

15

2016

299

41

88

0

2017

289

39

119

45

2018

240

43

95

37

2019

208

35

53

32

2021

213

32

57

18

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.

Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay - 11

So với số doanh nghiệp chấm dứt hoạt động trên thực tế thì số vụ việc

được giải quyết thông qua thủ tục phá sản là khá ít. Theo Sách trắng Việt Nam năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2019, mỗi năm có khoảng 24.365 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký. Năm 2019, con số này là 28.731 doanh nghiệp. Năm 2019 có khoảng 43.711 doanh nghiệp chờ giải thể và 16.840 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể. Số lượng doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, không tìm thấy, không liên lạc được trong năm 2019 là 46.841 doanh nghiệp. Sang năm 2020, cũng theo Sách trắng Việt Nam năm 2020, số lượng doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có đăng ký là

46.592 doanh nghiệp (tăng 62,2% so với năm 2019) và số doanh nghiệp giải thể là 17.464 doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy, một số lượng rất lớn các doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và không hoạt động đã được thống kê, tuy nhiên, lại rất ít các doanh nghiệp tuyên bố tình trạng phá sản hay giải quyết các quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan bằng thủ tục phá sản.

Theo Ngân hàng Thế giới, Chỉ số giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam là một chỉ số không có nhiều sự cải thiện, thậm chí đi xuống. Cụ thể biểu hiện ở sơ đồ sau:

Hình 3.1. Chỉ số giải quyết phá sản của Việt Nam từ năm 2016 đền năm 2020

39


38


37


36


35


34


33


32

2016

2017

2018

2019

2020

Chỉ sô giải quyết phá sản

Theo Doing Business 2020, chỉ số giải quyết phá sản Việt Nam đạt 38 điểm. Mặc dù chỉ số phá sản tăng được 11 bậc so với năm 2019 nhưng chỉ số này của Việt Nam vẫn đứng thấp nhất thế giới (122/190 nền kinh tế) với thời gian trung bình để giải quyết 1 vụ phá sản là 5 năm. Tỷ lệ thu hồi nợ chỉ đạt 21,3%; chi phí giải quyết phá sản doanh nghiệp lên tới 14,5%; kết quả giải quyết phá sản chỉ đạt 0 điểm do hầu hết các trường hợp đều bị tuyên bố phá sản và phải thanh lý, không phục hồi được; chất lượng của khuôn khổ pháp lý về phá sản doanh nghiệp chỉ đạt 8,5/16 điểm.

Về số lượng quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản của Bộ Tư pháp cho biết, tính đến tháng 4/2020, cả nước có 277 quản tài viên hành nghề với tư cách cá nhân; hơn 40 doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đang hoạt động. Nếu so sánh số lượng này trên tổng số dân cư thì là một tỷ lệ thấp, tuy nhiên nếu so sánh với tổng số vụ việc được mở thủ tục phá sản thì tỷ lệ lại xấp xỉ 1:1. Tỷ lệ này lớn là do số lượng vụ việc mở thủ tục phá sản ở Việt Nam hiện nay là quá thấp so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc không hoạt động nhưng không có bất kỳ một thủ tục pháp lý nào chấm dứt tư cách pháp lý của doanh nghiệp.

Thực tiễn thi hành Luật Phá sản 2014 trong những năm qua cho thấy, để xử lý vụ việc phá sản, Toà án Nhân dân các tỉnh đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các vụ việc phá sản. Các nguyên nhân chính dẫn đến chưa giải quyết vụ việc thụ lý là do đương sự không hợp tác, hoặc không có khả năng nộp phí mời quản tài viên, hoặc người yêu cầu không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ cần thiết để giải quyết vụ việc như hồ sơ doanh nghiệp, các chứng từ, báo cáo tài chính công nợ…Hơn nữa, các loại vụ việc phá sản chiếm tỷ lệ nhỏ trong các tranh chấp về kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hầu hết các vụ việc phá sản mang tính chất rất phức tạp, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật như các loại hợp đồng tín dụng, thế chấp, gia công, mua bán… cho đến quan hệ về tiền lương, bảo hiểm, thuế… có những hồ sơ vụ việc phá

Xem tất cả 214 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí