Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung, trong đó có các quy định về quản lý tài sản phá sản nói riêng, trước hết phải dựa vào thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó, các quy định về quản lý tài sản phá sản cần thể hiện được những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường nhưng trên cơ sở thực tiễn, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam; bảo đảm cơ chế phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản theo chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng cho doanh nghiệp, hợp tác xã có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản. Một nguyên lý quan trọng là các quy định về quản lý tài sản phá sản còn phải đảm bảo sự cân bằng giữa việc ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ nợ, người lao động - một luận thuyết cơ bản được áp dụng trong giai đoạn đầu của lịch sử pháp luật phá sản thế giới cũng như nguyên tắc bảo hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trên cơ sở hài hòa lợi ích chủ nợ, người lao động - luận thuyết hướng vào chủ thể mất khả năng thanh toán được các nước hiện đang áp dụng phổ biến với nhiều mức độ khác nhau.
Thời gian qua có thể thấy, sự ra đời của pháp luật về phá sản nói chung và của các quy định về quản lý tài sản phá sản nói riêng là sự nỗ lực cố gắng rất lớn của các nhà lập pháp nhằm nhanh chóng tổ chức một trật tự pháp lý cho việc doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, vốn là một cơ chế còn vắng bóng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc nhanh chóng tiếp thu pháp luật nước ngoài mà chưa tính đến sự phù hợp với năng lực thực thi pháp luật đã dẫn đến hiện tượng “hình thức” của pháp luật, khi mà cộng đồng doanh nghiệp tỏ ra không mấy quan tâm đến pháp luật phá sản do họ không có động lực tự thân, không nhận thấy được lợi ích cụ thể từ việc tìm hiểu và tuân thủ pháp luật phá sản. Nói cách khác, thực tiễn thi hành pháp luật phá sản nói chung và các biện pháp quản lý tài sản phá sản nói riêng chưa tạo
được niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp. Họ chưa coi đây là một công cụ hữu hiệu để giải quyết nợ và tìm lối thoát cho hoạt động kinh doanh của mình. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản đòi hỏi phải thỏa mãn được các nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp để chúng thực sự trở thành công cụ hữu hiệu hỗ trợ các doanh nghiệp mắc nợ giải quyết các khó khăn tài chính của mình trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản.
Thứ tư việc hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản phải trên cơ sở tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Pháp luật phá sản đã hình thành và phát triển ở các quốc gia khác từ rất lâu đời. Các quốc gia đã trải qua quá trình hình thành và hoàn thiện pháp luật phá sản, do đó, những mô hình lập pháp đó là những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Mỗi một hệ thống pháp luật đều chịu sự chi phối của thực tiễn kinh tế ở từng quốc gia, do đó, quá trình học hỏi kinh nghiệm quốc tế phải dựa trên cách tiếp cận về chuyển hóa pháp luật. Việc chuyển hóa pháp luật đòi hỏi quá trình nghiên cứu sâu sắc pháp luật nước ngoài trên cơ sở tiếp cận luật học so sánh để có thể xây dựng các quy định tương ứng trong pháp luật Việt Nam.
Hơn nữa, Việt Nam đã và đang hội nhập kinh tế sâu rộng với nhiều thị trường hàng hóa và dịch vụ lớn trên thế giới, hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hoặc ra nước ngoài ngày càng trở nên nhộn nhịp. Điều này đòi hỏi pháp luật về phá sản nói chung và pháp luật về quản lý tài sản phá sản nói riêng không những chỉ đáp ứng nhu cầu điều chỉnh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn phải tiếp cận với những thông lệ pháp luật chung để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của nhà đầu tư Việt Nam bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản đòi hỏi phải tiếp cận được với các thông lệ quốc tế, các giá trị phổ biến của nhân loại, những quy định có giá trị phổ quát để làm cơ sở cho việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật.
4.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam
Có thể nói, cùng với sự chỉnh sửa, bổ sung của các đạo luật phá sản 1993, 2004 và nay là Luật Phá sản 2014, chế định về quản lý tài sản phá sản đã ngày càng được quy định tương đối đầy đủ, chi tiết với rất nhiều quy định mới, tiến bộ. Điều đó cho thấy, ngoài việc nhấn mạnh vai trò hỗ trợ cho quá trình các doanh nghiệp mắc nợ thực hiện các thủ tục phá sản, nó còn đặc biệt coi trọng vấn đề bảo vệ quyền lợi của chủ nợ bởi lợi ích của chủ nợ phụ thuộc hoàn toàn vào giá trị tài sản của doanh nghiệp mắc nợ sau khi tuyên bố mở thủ tục phá sản. Nếu việc quản lý tài sản phá sản hiệu quả thì nó sẽ mang lại lợi ích đồng thời cho cả doanh nghiệp mắc nợ và các chủ nợ. Tuy nhiên, quản lý tài sản nói chung và quản lý tài sản phá sản là một hoạt động tương đối phức tạp, phụ thuộc rất nhiều vào không chỉ sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật mà còn đòi hỏi năng lực thực thi thực tiễn rất cao vì các hoạt động quản lý tài sản phá sản đều mang tính chuyên môn cao, đòi hỏi sự am hiểu kiến thức nhiều lĩnh vực và kinh nghiệm thực tiễn, chính vì thế, quá trình thực hiện các biện pháp quản lý tài sản phá sản thời gian qua đã cho thấy nhiều hạn chế, bất cập. Do đó, để nâng cao hiệu quả của các biện pháp quản lý tài sản phá sản, để các quy định này thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân liên quan, tác giả xin đề xuất một số kiến nghị, sửa đổi bổ sung như sau:
4.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tài sản phá sản, xác định tài sản phá sản
Thứ nhất, sửa đổi Điều 64 Luật Phá sản 2014 về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Tự Ý Chấm Dứt; Tạm Đình Chỉ Thực Hiện Hợp Đồng Đang Có Hiệu Lực
- Các Quy Định Về Áp Dụng Các Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời
- Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quản Lý Tài Sản Phá Sản Ở Việt Nam
- Sửa Đổi, Bổ Sung Các Quy Định Về Các Biện Pháp Quản Lý Tài Sản Phá Sản
- Tăng Cường Vai Trò Của Các Cơ Quan, Đơn Vị Có Liên Quan Đến Tài Sản Phá Sản Của Doanh Nghiệp Trong Phối Hợp Công Tác, Hỗ Trợ Cung Cấp Thông Tin Cho
- Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay - 24
Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.
Để thống nhất với Bộ luật Dân sự 2015, điều khoản này chỉ nên sử dụng thuật ngữ là “tài sản” trong đó đã bao gồm cả các “quyền tài sản”.
Điều khoản này cần thiết quy định rõ hơn về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Thông thường, tài sản phát sinh tại thời điểm mở thủ tục phá sản cho đến thời điểm ra quyết định tuyên bố phá sản sẽ được coi là thuộc khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Đối với tài sản phát sinh quyền sở hữu sau thời điểm tuyên bố phá sản thì không thuộc khối tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đương nhiên là các tài sản này không thuộc các trường hợp có dấu hiện tẩu tán, hoặc cất giấu.
Bổ sung nội dung quy định về các tài sản miễn trừ để phù hợp với thông lệ quốc tế trong việc đảm bảo tính nhân đạo của các quy định.
Thứ hai, bổ sung quy định hướng dẫn về xác định giá trị quyền sử dụng đất trong xác định tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo hướng sau đây:
Tùy vào chế độ sử dụng đất khác nhau, nghĩa vụ tài chính khác nhau mà việc xác định giá trị của quyền sử dụng đất nên theo hướng tối đa hóa lợi ích cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nhằm tạo cơ hội phục hồi hoặc tối đa hóa khối tài sản của doanh nghiệp. Theo đó, quy định hướng dẫn cần phân biệt trong trường hợp nào giá trị của quyền sử dụng đất áp dụng trong trường hợp thu hồi và trong trường hợp nào là theo giá thị trường.
Thứ ba, bổ sung quy định hướng dẫn về mở tài khoản để gửi các khoản tiền thu được trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp theo hướng:
Theo tinh thần của điều khoản này thì các khoản tiền thu từ quá trình giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp sẽ được sẽ được gửi vào tài khoản do tòa án nhân dân hoặc cơ quan thi hành án dân sự mở tại Ngân hàng. Như vậy, chủ tài khoản phải là cơ quan nhà nước chứ không phải là cá nhân thẩm phán. Điều này nhằm bảo đảm tính minh bạch và công khai của việc lưu giữ khoản tiền thu được từ quá trình giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp. Do đó, quy định hướng dẫn nên thống nhất theo hướng chủ tài khoản phải là tòa án nhân dân hoặc cơ
quan thi hành án dân sự. Việc mở một tài khoản hay nhiều tài khoản tương ứng với từng vụ việc phá sản
4.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chủ thể quản lý tài sản phá sản
- Sửa đổi Điều 16 Luật Phá sản 2014 theo hướng mở rộng thẩm quyền của Quản tài vi n/Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản:
Dựa trên thực trạng pháp luật và những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực thi các quy định liên quan đến việc quy định về thẩm quyền của quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của Việt Nam và dựa trên kinh nghiệm quốc tế, tác giả cho rằng cần phải điều chỉnh pháp luật theo hướng gia tăng thêm chức năng của quản tài viên, đặc biệt các chức năng liên quan đến quản lý tài sản phá sản. Cụ thể như chức năng đại diện cho con nợ, quyền có được thông tin liên quan đến con nợ, giao dịch trong quá khứ, gồm cả việc xem xét con nợ và bất kỳ bên thứ ba nào đã giao dịch với con nợ và điều này đòi hỏi nghĩa vụ trung thực của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về tình trạng phá sản, tình trạng tài sản, đăng ký quyền của tài sản…
- Sửa đổi Điều 45 Luật phá sản 2014 quy định về chỉ định Quản tài vi n doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản phá sản theo hướng đề cao quyền quyết định chỉ định Quản tài vi n/doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản của chủ nợ:
Theo quy định của Luật Phá sản 2014, quyền chỉ định Quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đang thuộc về Thẩm phán phụ trách vụ việc. Điều này rõ ràng chưa mang tính hợp lý, chưa thể hiện được tính thị trường và tôn trọng quyền tự quyết của người nộp đơn cho quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Theo đề xuất của rất nhiều chuyên gia và bản thân nghiên cứu sinh cũng đồng tình với việc nên để cho người nộp đơn thực hiện. Chí ít, trong thời gian Luật Phá sản 2014 còn hiệu lực thực thi, dưới góc độ văn bản hướng dẫn, cần thiết phải ràng buộc nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc có một văn bản để giải thích về phủ nhận danh sách Quản tài viên do
người nộp đơn đề xuất cũng như việc giải thích tại sao lại chọn Quản tài viên này cho việc mở thủ tục phá sản đó.
Bên cạnh đó, không nên cứng nhắc quy định chỉ có một quản tài trong một vụ. Bởi có nhiều vụ việc lớn, một người không thể quản lý và giải quyết hiệu quả hết việc, hoặc để phòng tránh khi có một người ốm, nghỉ phép... Tuy nhiên, nếu pháp luật cho phép chỉ định nhiều hơn một Quản tài viên để thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản phá sản thì vấn đề xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phải được quy định một cách cụ thể và rõ ràng. Ví dụ như các Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phối hợp thực hiện các công việc hay mỗi người được phân công một nhóm công việc cụ thể, riêng biệt và tự mình chịu trách nhiệm đối với việc mình được phân công…
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 45 Luật Phá sản 2014, yếu tố quan trọng cho việc chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản là dựa trên “đề xuất của người nộp đơn y u cầu”. Vậy xử lý thế nào trong tình huống thẩm phán thấy rằng Quản tài viên không phù hợp với tiêu chí để được chỉ định và thực hiện công việc quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Nếu thay đổi Quản tài viên, thẩm phán có phải dựa trên đề xuất của người nộp đơn hay tự chỉ định không? Đây là vấn đề còn bỏ ngõ trong pháp luật Việt Nam. Do đó, cần phải được luật hóa để điều chỉnh cụ thể về vấn đề này theo hướng đề cao quyền chỉ định Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản cho chủ nợ, đồng thời cũng phải quy định chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản.
- Bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể về trường hợp từ chối giải quyết phá sản của Quản tài vi n/doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản
Trong trường hợp Quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối tham gia vụ phá sản, trong trường hợp này, để giúp cho việc giải quyết vụ phá sản được thuận lợi và mang lại hiệu quả cao, thì các Thẩm phán giải
quyết vụ phá sản cần căn cứ vào danh sách các Quản tài viên do Sở Tư pháp của các địa phương cung cấp, trên cơ sở các căn cứ chỉ định Quản tài viên nêu tại khoản 2 Điều 45 Luật Phá sản năm 2014 để lựa chọn ra một Quản tài viên có đầy đủ các yếu tố phù hợp tham gia vụ phá sản đó. Đồng thời, cần có sự trao đổi, thống nhất với Quản tài viên đó trước khi ra quyết định chỉ định Quản tài viên để không xảy ra các tình huống phát sinh như nêu ở trên. Nếu đã thực hiện các bước như trên, Quản tài viên đã nhận lời tham gia vụ phá sản. Nhưng khi có quyết định chỉ định thì Quản tài viên lại có ý kiến từ chối tham gia, bởi không có quy định nào của pháp luật cấm điều này. Đồng thời cũng không có quy định nếu Quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối tham gia vụ việc phá sản thì bước tiếp theo sẽ là như thế nào? Do đó, cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể cho trường hợp này.
- Bổ sung quy định nhằm hoàn thiện cơ chế th lao cho Quản tài vi n/Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản:
Hoạt động quản lý, thanh lý tài sản do Quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện là hoạt động dịch vụ, mang tính kinh tế. Đặc điểm này được thể hiện ở điểm: ngoài việc hưởng các chi phí khác như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản, mục đích hoạt động của Quản tài viên nhằm hướng tới lợi ích vật chất (thù lao được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản). Thù lao của Quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được chi trả từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã dựa trên cơ sở thời gian, công sức, kết quả thực hiện nhiệm vụ của Quản tài viên (Khoản1, Điều 24 Luật Phá sản năm 2014) và được xác định bằng nhiều phương thức như: căn cứ vào giờ làm việc của Quản tài viên, thỏa thuận mức thù lao trọn gói hoặc mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thu được sau khi thanh lý. Tuy nhiên, dù xác định theo phương thức nào thì thù lao cũng phải bảo đảm tương xứng với thời gian, công sức và kết
quả lao động của Quản tài viên. Như vậy, giá trị sức lao động của Quản tài viên được xác định trên cơ sở giá cả thị trường và mục đích của hoạt động cung cấp dịch vụ này là lợi ích kinh tế. Do đó, cần thiết phải xây dựng cơ chế chi trả thù lao cho Quản tài viên/Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tương xứng với công sức mà họ đã bỏ ra.
- Ban hành bộ quy tắc ứng xử đối với hành nghề của Quản tài viên/Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ mà Quản tài vi n và doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản cung cấp:
Mục tiêu của việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử đối với quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là xác lập các chuẩn mực đạo đức trong việc thực hiện trách nhiệm của quản tài viên khi thực hiện các quy định của Luật Phá sản 2014 trong việc đảm bảo hiệu quả thực thi các thẩm quyền và trách nhiệm của quản tài viên trong suốt quá trình thực hiện thủ tục phá sản nói chung và trong hoạt động quản lý tài sản phá sản nói riêng. Đồng thời, việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử cho quản tài viên cũng góp phần vào việc hình thành một môi trường hành nghề chuyên nghiệp, đảm bảo chất lượng của việc cung cấp dịch vụ của quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Qua đó, việc ra đời bộ quy tắc ứng xử cho quản tài viên cũng góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh nói chung, đồng thời nó cũng là hướng dẫn quan trọng giúp các quản tài viên ngày càng hoàn thiện, tuân thủ các chuẩn mực đạo đức và nâng cao năng lực của bản thân.
Bộ quy tắc ứng xử cho quản tài viên phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc như tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm trung thực, độc lập và khách quan trong quá trình hành nghề, không có hành vi xung đột lợi ích, có ý thức trách nhiệm, cẩn trọng trong nghề nghiệp, đặc biệt là tuân thủ nghĩa vụ về bảo mật thông tin. Bộ quy tắc ứng xử cũng cần phải có đánh giá, xác định các nguy cơ mà có khả năng vi phạm các nguyên tắc cơ bản nói trên, sau đó, đưa ra các giải pháp để giảm thiểu nguy cơ vi phạm. Trên thực tế, các nguy cơ