1.4.2. Bình luận các qui định
1.4.2.1. Phân loại các hành vi pháp lý bị vô hiệu trong pháp luật Việt Nam về phá sản
* Phân loại theo vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối
Các quy định tại Điều 44, Luật Phá sản năm 2004 đã mô tả và diễn giải ở trên cho thấy các chủ nợ không có bảo đảm hay Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1, Điều 43, Luật Phá sản năm 2004 là vô hiệu.
Theo nguyên lý chung của cơ chế lấy nợ theo luật phá sản của các nước, thì quản tài viên hay Tổ quản lý, thanh lý tài sản (theo cách gọi của Việt Nam) là đại diện cho các chủ nợ. Do đó việc vô hiệu một hành vi pháp lý của con nợ cần phải có yêu cầu của người này hoặc trực tiếp của các chủ nợ không có bảo đảm có thể được xem là vô hiệu tương đối bởi với vô hiệu tuyệt đối Tòa án có thể nại ra sự vô hiệu không cần tới yêu cầu của đương sự. Xác định này là hợp lý bởi việc lấy nợ của các chủ nợ trên tài sản của con nợ bị phá sản là các lợi ích tư không có tính chất công quyền. Tòa án chỉ hỗ trợ cho các bên giải quyết nợ nần với nhau. Bản thân chủ nợ có thể từ bỏ quyền đòi nợ của mình. Tuy nhiên việc vô hiệu này có tính chất đặc biệt là vô hiệu hành vi pháp lý giữa con nợ và người thứ ba, nên đòi hỏi pháp luật phải qui định rõ ràng.
* Phân loại theo thời gian xác lập các hành vi pháp lý vô hiệu
Căn cứ vào thời điểm xác lập các hành vi pháp lý vô hiệu, có thể phân loại chúng thành: (1) Các hành vi pháp lý vô hiệu thực hiện trước khi tiến hành phá sản; và (2) các hành vi pháp lý vô hiệu xác lập trong giai đoạn tiến hành thủ tục phá sản.
Pháp luật phá sản quy định các giao dịch của doanh nghiệp được tiến hành trong khoảng thời gian trước hoặc sau khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản có dấu hiệu khả nghi với mục đích làm suy giảm tài sản của con nợ có thể bị tòa án tuyên bố là vô hiệu khi có yêu cầu của các chủ thể có
quyền theo quy định. Các qui định tuyên vô hiệu các hành vi pháp lý có mục đích tiêu cực trong cả hai giai đoạn này là hợp lý và bảo vệ được quyền lợi của các chủ nợ và mục tiêu chủ yếu của luật phá sản. Lợi ích của chủ nợ là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản. Pháp luật phá sản hiện hành quy định các chủ nợ không có bảo đảm tức là khoản nợ của họ không được bảo đảm bằng bất cứ tài sản nào của con nợ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch của con nợ bị vô hiệu. Còn lợi ích của chủ nợ có bảo đảm và bảo đảm một phần không quy định cho họ quyền đó.
Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập các qui chế pháp lý khác nhau thích hợp với các đặc điểm riêng của từng loại và bảo vệ một cách đầy đủ các quyền lợi của chủ nợ và cơ chế lấy nợ tập thể bằng cách kiểm soát các hành vi pháp lý hữu hiệu của con nợ.
Có thể bạn quan tâm!
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 2
- Các Quy Định Về Hành Vi Pháp Lý Vô Hiệu Trong Luật Phá Sản Năm 2004 Của Việt Nam
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 4
- Thực Trạng Giải Quyết Phá Sản Và Tuyên Bố Các Hành Vi Pháp Lý Vô Hiệu Liên Quan Đến Phá Sản
- Những Hạn Chế, Vướng Mắc Của Quy Phạm Pháp Luật Phá Sản Về Các Hành Vi Pháp Lý Vô Hiệu
- Bất Cập Trong Quy Định Về Chủ Thể Có Quyền Yêu Cầu Tòa Án Tuyên Bố Giao Dịch Vô Hiệu
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
* Phân loại theo hình thức của hành vi pháp lý bị vô hiệu
+ Cất giấu, tẩu tán tài sản dưới mọi hình thức: Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ đứng trước nguy cơ toàn bộ khối tài sản của doanh nghiệp sẽ bị quản lý và đem trả hết cho các chủ nợ nên doanh nghiệp thường có hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản. Đây là hành vi gian dối của con nợ mà pháp luật phá sản hiện hành cấm là hợp lý bảo đảm cho các mục tiêu của luật phá sản và bảo vệ các lợi ích chính đáng của chủ nợ.
+ Chuyển giao quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp cho chủ thể khác nhưng không có đền bù: Hành vi tặng cho động sản và bất động sản cho người khác. Nếu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, trong khi không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cho các chủ nợ mà lại thực hiện việc tặng cho tài sản là động sản hoặc bất động sản cho người khác là hành vi có mục đích gian dối, làm thất thoát khối tài sản phá sản, gây thiệt hại cho lợi ích của các chủ nợ nên hết sức cần thiết tuyên bố hành vi đó là vô hiệu để thu hồi lại tài sản đã tặng cho nhằm khôi phục lại khối tài sản của doanh nghiệp, ngăn chặn mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
+ Thực hiện phần nghĩa vụ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia: Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia;
+ Thực hiện nghĩa vụ về tài sản trước thời hạn: Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn. Về nguyên tắc nợ thì phải trả, nhưng việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã không thể hoàn trả được các khoản nợ đến hạn mà lại thực hiện việc trả các khoản nợ chưa đến hạn là điều phi lý và đặt dấu chấm hỏi về mục đích của việc trả nợ, chắc chắn điều đó là không trung thực đối với tất cả các chủ nợ,hoặc ưu tiên cho chủ nợ được trả khi chưa đến hạn phải trả, điều đó là không công bằng đối với tất cả các chủ nợ.
+ Thanh toán nợ không có bảo đảm: Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, pháp luật phá sản cấm thực hiện việc thanh toán nợ không có bảo đảm. Bởi vì, khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản tức là khối tài sản phá sản phải được quản lý chặt chẽ để trả cho tất cả các chủ nợ theo tỷ lệ phần trăm trên tổng giá trị tài sản phá sản. Bởi khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thông thường tài sản phá sản còn rất ít so với tổng số nợ phải trả cho tất cả các chủ nợ.
+ Xác lập các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản nợ không có bảo đảm: Trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ thì hành vi này sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo quy định pháp luật phá sản. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án mà doanh nghiệp lại có hành vi chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp là hành vi không trung thực và bị pháp luật phá sản nghiêm cấm thực hiện.
+ Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ: Từ khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không được từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ khi doanh nghiệp, hợp
tác xã với tư cách là chủ nợ trong các giao dịch khác, bởi điều đó gây thất thoát khối tài sản của doanh nghiệp, gây thiệt hại đến quyền lợi của các chủ nợ.
Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Luật phá sản quy định: sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hành vi của doanh nghiệp, hợp tác xã có liên quan đến tài sản phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện, đó là các hành vi:
- Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;
- Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
- Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
- Vay tiền;
- Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
- Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
Như vậy, Luật phá sản đã có nhiều quy định nhằm ngăn chặn những hành vi làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp, để đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ một cách tốt nhất, đó là quy định hết sức cần thiết. Cùng với quy định của pháp luật phá sản, các quy định pháp luật có liên quan (như hành chính, hình sự, dân sự) cũng cần thiết có sự quy định thống nhất, chặt chẽ nhằm phòng ngừa những hành vi tẩu tán tài sản của con nợ khi đứng trước nguy cơ phá sản nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn, có hiệu lực và khả thi trên thực tế, thực sự là công cụ hữu hiệu để các chủ nợ sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc phân loại như vậy rất cụ thể, mang đầy tính kỹ thuật pháp lý khiến cho chính sách bảo toàn tài sản phá sản của luật phá sản được thực hiện đầy đủ và thích hợp. Việc phân loại như vậy không bỏ sót các trường hợp đáng tiếc nào. Tuy nhiên khi qui định quá chi tiết sẽ gây khó khăn không nhỏ cho việc giải thích áp dụng.
1.4.2.2. Tuyên bố hành vi pháp lý vô hiệu trong pháp luật về phá sản và hậu quả pháp lý của nó
Trong sự thống nhất với Bộ luật Dân sự 2005, Luật Phá sản năm 2004 qui định Tòa án có thẩm quyền tuyên bố hành vi nào là vô hiệu. Tuy nhiên có thể xét các giao dịch bị tuyên bố vô hiệu trong Luật Phá sản năm 2004 là các giao dịch mà người yêu cầu tuyên bố và có lợi ích từ việc tuyên bố không phải là một bên trong quan hệ giao dịch, có nghĩa là tuyên bố vô hiệu giao dịch của người khác. Vậy nếu xét từ điều kiện có hiệu lực của giao dịch theo Bộ luật Dân sự 2005 thì có thể nói các giao dịch này có thể không vi phạm điều kiện tự nguyện, không vi phạm điều kiện chủ thể, không vi phạm điều kiện về hình thức. Vậy chỉ còn lại điều kiện về mục đích và nội dung. Khó có thể luận giải các giao dịch này là trái đạo đức xã hội. Nên có thể hiểu mục đích của các giao dịch này là không phù hợp với hoàn cảnh mà được pháp luật bảo vệ.
Việc chỉ cho phép các chủ nợ không có bảo đảm được quyền yêu cầu Tòa án tuyên các giao dịch này vô hiệu là chưa thỏa đáng bởi hành vi tẩu tán tài sản ảnh hưởng chung tới tất cả các chủ nợ kể cả chủ nợ có bảo đảm hoặc bảo đảm một phần. Bản thân tài sản đã bảo đảm cho một chủ nợ cũng có thể bị con nợ tặng cho hay đem bán với giá danh nghĩa. Chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn phải tham dự vào việc phân chia với các chủ nợ không có bảo đảm khác. Tuy nhiên Tổ quản lý, thanh lý tài sản có thể yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu với các giao dịch được liệt kê trong Luật Phá sản năm 2004 mà không bị lệ thuộc vào các yêu cầu cụ thể của chủ nợ.
Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hành vi pháp lý vô hiệu trong pháp luật về phá sản không được đề cập rõ trong Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên hậu quả của nó có thể được giải quyết chung theo các qui định khác của pháp luật bởi nguyên lý chung trong việc xử lý hành vi pháp lý vô hiệu không hề khác nhau.
Thủ tục tuyên hành vi pháp lý vô hiệu không được qui định cụ thể trong Luật Phá sản năm 2004. Xét về mặt luật thủ tục, thì dường như có vẻ
thiếu và chưa chặt chẽ. Tuy nhiên việc tuyên vô hiệu có thể xem xét bởi các qui tắc chung. Thông thường dưới luật, ở nước ta, còn có các văn bản hướng dẫn thi hành. Thực tế Mục 1 Phần IV Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản năm 2004 có qui định như sau:
1.1. Trong quá trình Tòa án tiến hành thủ tục phá sản, nếu phát hiện doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thực hiện một trong các giao dịch và trong thời hạn được quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật Phá sản năm 2004, thì chủ nợ không có bảo đảm, Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu. Yêu cầu phải được làm thành văn bản. Kèm theo văn bản yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Khi nhận được văn bản yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản phải kiểm tra, xem xét và nếu xét thấy yêu cầu là có căn cứ, đúng pháp luật, thì ra quyết định tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.
1.2. Thẩm phán phải gửi quyết định tuyên bố giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật Phá sản năm 2004 là vô hiệu cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản và các bên tham gia giao dịch. Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 44 của Luật Phá sản năm 2004 [23].
Khi các giao dịch bị tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định của Tòa án tuyên bố giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã là vô hiệu để thu hồi lại tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã. Các qui định này xuất phát từ việc xem Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thi hành án. Vì vậy Tổ trưởng là cán bộ của cơ quan thi hành án. Các qui định này tiện lợi về mặt thi hành đỡ gây
tốn kém về thời gian và tiền bạc. Song coi Tổ quản lý, thanh lý tài sản là đại diện cho cơ quan thi hành án là chưa hoàn toàn chuẩn xác. Ở nhiều nước quản tài viên có thể là một công dân (luật sư hay kế toán) không thuộc cơ quan công quyền nào.
Khi thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, thì Tòa án không cần phải tiến hành đề nghị đương sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu mà Tòa án đang giải quyết yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu căn cứ vào Điều 43 hoặc Điều 31 của Luật Phá sản năm 2004 và sẽ xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 137 của Bộ luật Dân sự 2005 theo nguyên tắc các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tài sản thu hồi được từ các giao dịch vô hiệu của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản sẽ được nhập vào khối tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đó.
Các qui định về hậu quả của việc tuyên bố vô hiệu như vậy được xem xét trong tổng thể hệ thống pháp luật, tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo, nhưng cũng không gây khó khăn trong việc áp dụng luật.
Các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức… quy định việc quản lý sản nghiệp phá sản thuộc về một người do Tòa án giải quyết vụ việc phá sản bổ nhiệm. Người này được giao quyền lớn trong việc giải quyết vụ việc phá sản. Người này thường được gọi là quản tài viên hay tín thác viên có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của con nợ bị mở thủ tục phá sản, và có quyền triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ, quyền quyết định hủy bỏ hay công nhận các giao dịch pháp lý mà con nợ đã thực hiện… Tuy nhiên tín thác viên hoạt động dưới sự giám sát của các chủ nợ, đồng thời có nghĩa vụ bảo toàn tài sản của con nợ. Do vậy việc nại ra sự vô hiệu của hợp đồng thường là tín thác viên. Còn ở Việt Nam thì Tổ quản lý thanh lý tài sản, và chủ nợ không có đảm bảo.
Điều này cho thấy có sự mâu thuẫn giữa mục đích của luật phá sản thiết lập một cơ chế lấy nợ tập thể và sự cho phép chủ nợ không có bảo đảm nại ra sự vô hiệu như trên.
1.4.2.3. Các giải pháp tổng thể để kiểm soát việc tẩu tán tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản
Như ở trên đã mô tả các qui định của Luật Phá sản năm 2004 liên quan tới việc tẩu tán tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản được chia thành hai loại:
Thứ nhất, các qui định trực tiếp liên quan tới việc tuyên vô hiệu các hành vi pháp lý;
Thứ hai, các qui định về việc ngăn chặn tẩu tán tài sản khác.
Trước tiên phải nhận xét các qui định này tạo thành một tập hợp các giải pháp đồng bộ nhằm kiểm soát có hiệu quả việc tẩu tán tài sản của con nợ trước và sau khi mở thủ tục phá sản. Các qui định thứ nhất có tính cách chống các hành vi tiêu cực tẩu tán tài sản. Các qui định thứ hai có tính cách phòng và hỗ trợ cho các qui định thứ nhất. Sự bổ khuyết cho nhau giữa các qui định này khiến cho Luật Phá sản năm 2004 chặt chẽ và có tính khả thi cao nhằm bảo vệ cho các mục tiêu của luật phá sản, đồng thời bảo vệ hữu hiệu cho quyền lợi của các chủ nợ.
Mặc dù tuyên vô hiệu một số hành vi pháp lý là một loại chế tài rất hữu hiệu để bảo toàn tài sản của con nợ. Song trong các giải pháp tổng thể cũng phải tính đến các ngoại lệ do những đặc thù của doanh nghiệp lâm vào tính trạng phá sản đem lại. Chẳng hạn: Đối với tổ chức tín dụng:
Nếu trong khoảng thời gian ba tháng trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tổ chức tín dụng đang được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc đang được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hỗ trợ tài chính thì việc thanh