vào tình trạng phá sản sẽ bị tuyên bố vô hiệu nhằm khôi phục lại khối tài sản của của thương nhân. Điều đó tạo cho các chủ thể có quyền thu hồi tài sản đã bị chuyển giao cho người khác một cách bất chính đáng và thiếu công bằng. Tuy nhiên việc tuyên bố các hành vi pháp lý như vậy là vô hiệu còn phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế lấy nợ tập thể và quan niệm các hành vi vô hiệu đó được xem là hành vi vô hiệu tuyệt đối hay tương đối. Điều đó có nghĩa là chủ nợ thực hiện quyền của mình như thế nào trong việc lấy nợ theo trình tự phá sản là một vấn đề lớn nằm ngoài phạm vi của việc xác định quyền đơn thuần.
Như vậy các hành vi pháp lý vô hiệu nói ở đây phụ thuộc cả luật nội dung, lẫn luật thủ tục. Vì vậy khi nghiên cứu vấn đề này không thể chỉ đơn thuần chú ý tới đạo luật phá sản mà phải thực sự lưu ý tới các đạo luật khác về dân sự, thương mại và các đạo luật về thủ tục liên quan. Nghiên cứu luật nội dung ở đây để trả lời cho câu hỏi hành vi nào bị tuyên vô hiệu và tại sao. Còn việc nghiên cứu luật thủ tục để trả lời cho câu hỏi việc thực hiện quyền lợi trong tuyên vô hiệu như vậy phải thực hiện như thế nào.
1.3. Khái niệm về hành vi pháp lý vô hiệu
1.3.1. Khái niệm hành vi pháp lý
Hành vi là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan bằng hành động hoặc không hành động được lý trí kiểm soát và ý chí điều khiển nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Hành vi của con người rất đa dạng nhưng chỉ những hành vi được pháp luật quy định, điều chỉnh (tức là những hành vi làm phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt quan hệ pháp luật mà chủ thể thực hiện những hành vi đó được hưởng quyền và/hoặc có nghĩa vụ pháp lý từ việc thực hiện hành vi) mới là hành vi pháp lý.
Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội và của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội thì hành vi
và sự biến là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Theo TS. Ngô Huy Cương - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội:
Phân loại các nguồn gốc của nghĩa vụ thành (1) Hành vi pháp lý (juridical acts) hay còn gọi là giao dịch pháp lý; và (2) sự kiện pháp lý (juridical facts). Tại đây hành vi pháp lý được xem là việc làm phát sinh ra hậu quả pháp lý bởi ý chí của chính đương sự. Hậu quả này có thể làm phát sinh hay thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp lý [8].
Có thể bạn quan tâm!
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 1
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 2
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 4
- Phân Loại Các Hành Vi Pháp Lý Bị Vô Hiệu Trong Pháp Luật Việt Nam Về Phá Sản
- Thực Trạng Giải Quyết Phá Sản Và Tuyên Bố Các Hành Vi Pháp Lý Vô Hiệu Liên Quan Đến Phá Sản
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005 gọi các hành vi pháp lý là giao dịch dân sự. Điều 121, Bộ luật Dân sự 2005 định nghĩa: "Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [20].
Giao dịch ở đây được hiểu là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên "giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với mục đích và động cơ nhất định" [26, tr. 137].
Hành vi pháp lý hay giao dịch dân sự được chia thành hai loại là hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương. Hợp đồng được hiểu là sự tự nguyện của hai hay nhiều bên thống nhất làm phát sinh ra mối quan hệ của họ đối với nhau liên quan tới một đối tượng nhất định hoặc làm thay đổi hay chấm dứt một quan hệ như vậy. Còn hành vi pháp lý đơn phương là sự tự nguyện của một người ràng buộc mình vào một quan hệ pháp luật nhất định hoặc làm thay đổi hay chấm dứt quan hệ đó. Từ đó có thể hiểu ý chí của các bên là thành tố không thể thiếu của hành vi pháp lý. Tuy nhiên thành tố này bị kiểm soát bởi pháp luật nhằm bảo vệ cộng đồng hoặc người khác.
Thực chất chủ thể hoặc các chủ thể tự nguyện gánh chịu các nghĩa vụ pháp lý mà mình mong muốn làm phát sinh hoặc làm thay đổi nó hay chấm dứt một quyền lợi nhất định. Pháp luật trong trường hợp này bảo hộ và cho thi
hành các hành vi pháp lý bằng cách thừa nhận và cưỡng chế thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các hành vi pháp lý đó, có nghĩa là Nhà nước tôn trọng ý chí của tư nhân.
Các hành vi pháp lý có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển kinh tế. Mọi người có thể trao đổi sản phẩm hoặc dịch vụ đối với nhau thông qua các hành vi pháp lý hay các giao dịch. Ví dụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho người mua, còn người mua tự nguyện trả giá bán cho người bán. Trong hợp đồng dịch vụ, người cung cấp dịch vụ tự nguyện làm một công việc vì lợi ích của người thuê dịch vụ thay vì nhận một khoản tiền từ người sau này. Các hành vi này làm thỏa mãn nhu cầu của cả hai bên, và thông qua đó hàng hóa được lưu thông, dịch vụ được cung cấp khiến cho kinh tế phát triển.
Tuy nhiên nhiều trường hợp thương nhân lợi dụng các hành vi pháp lý để tẩu tán tài sản và trục lợi như trên đã phân tích. Các hành vi tiêu cực đó gây tác hại không nhỏ cho chủ nợ và thông qua đó là cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy ngay từ thời cổ đại các luật gia đã cố gắng tìm cách khắc phục bằng cách tiêu chuẩn hóa các hành vi này và vô hiệu các hành vi ngoài tiêu chuẩn.
1.3.2. Điều kiện có hiệu lực của hành vi pháp lý
Để đảm bảo trật tự cộng đồng, đạo đức xã hội, cũng như quyền và lợi ích chính đáng của chính các bên tham gia quan hệ và của người khác pháp luật phải vào cuộc quy định những điều kiện để hành vi pháp lý hay giao dịch có hiệu lực. Nếu một hành vi pháp lý hay giao dịch không thỏa mãn những điều kiện đã quy định thì những hành vi hay giao dịch này bị loại bỏ hoặc có thể bị loại bỏ bởi được xem như không đủ tiêu chuẩn.
Pháp luật thương mại không có các qui định riêng về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thương mại mà hầu như dựa trên những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được qui định tại Bộ luật dân sự 2005. Điều 1 của Bộ luật Dân sự 2005 qui định: "Bộ luật này điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, và lao động" [20]. Tuy nhiên có một số đạo luật trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại xuất phát từ đặc thù có qui định chặt hơn liên quan tới trường hợp giao dịch bị vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu.
Điều 131, Bộ luật Dân sự 2005 qui định:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có qui định [20].
Như vậy có thể hiểu các điều kiện này xuất phát từ yêu cầu bảo vệ trật tự công cộng và bảo vệ chính các lợi ích chính đáng người tham gia quan hệ. Có thể hiểu những điều kiện nói trên không được làm thỏa mãn ở một giao dịch nào đó thì giao dịch đó được coi là không đủ tiêu chuẩn. Về nguyên tắc một giao dịch dân sự không đáp ứng được các điều kiện nêu trên thì vô hiệu.
Tóm lại điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một trong những nội dung cơ bản, quyết định sự ổn định, tính hợp pháp và tính hiệu quả của các giao dịch trong giao lưu dân sự nói chung và trong hoạt động thương mại nói riêng. Nếu pháp luật không có những quy định cụ thể, rành mạch sẽ làm cho các chủ thể hoang mang và không tự tin khi tham gia các giao dịch, gây ra những hậu quả xấu đối với kinh tế - xã hội.
1.3.3. Hành vi pháp lý vô hiệu
Việc không đáp ứng được những điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì giao dịch đó bị vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Bộ luật Dân sự 2005 đã khẳng định dứt khoát sự vô hiệu của giao dịch dân sự khi không đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực (Điều 127). Điều đó cho thấy quan điểm dứt
khoát của nhà làm luật trong việc cương quyết loại bỏ các giao dịch không đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên quan điểm này hơi thái quá. Giao dịch dân sự vô hiệu được xem là giao dịch không làm phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự từ thời điểm xác lập giao dịch. Hậu quả trực tiếp của giao dịch dân sự vô hiệu là các bên trong quan hệ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Tuy nhiên cần thấy rằng khoa học pháp lý phân loại sự vô hiệu các giao dịch thành nhiều loại căn cứ vào các tiêu chí khác nhau:
+ Phân loại theo các nguyên nhân vô hiệu cụ thể. Trong phân loại này các trường hợp vô hiệu được phân biệt rõ ràng ở các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới. Chẳng hạn Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam chia thành các trường hợp vô hiệu như: (1) Vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 128, Bộ luật dân sự 2005); (2) vô hiệu do giả tạo (Điều 129, Bộ luật dân sự 2005); (3) vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 130, Bộ luật dân sự 2005); (4) vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 131, Bộ luật dân sự 2005); (5) vô hiệu do bị lừa dối, đê dọa (Điều 132, Bộ luật dân sự 2005); (6) vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 133, Bộ luật dân sự 2005); (7) vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức (Điều 134 Bộ luật dân sự 2005).
+ Phân loại theo mức độ áp dụng sự vô hiệu. Cách phân loại này cũng được đề cập tới trong pháp luật dân sự ở các nước. Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam chỉ ra hai loại là vô hiệu toàn bộ và vô hiệu từng phần (Điều 135, Bộ luật dân sự 2005). Hiểu đơn giản, vô hiệu toàn bộ là tất cả giao dịch bị xem là không có hiệu lực, còn vô hiệu từng phần là một hoặc nhiều phần của một giao dịch bị xem là không có hiệu lực mà không ảnh hưởng tới các phần khác còn lại.
+ Phân loại theo thẩm quyền đề xuất tuyên vô hiệu. Cách phân loại này được khoa học pháp lý đề cập đến và được áp dụng ở các nước. Đó là vô
hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Trong cổ luật việc phân loại giao dịch vô hiệu đã được đề cập đến và khởi thủy là pháp luật La Mã.
Sự phân biệt hai loại vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối là một kết quả của sự tiến hóa trong lịch sử cổ luật La Mã. Trong thời kỳ đầu tiên, khi một điều kiện liên quan đến sự lập khế ước không được tôn trọng, khế ước đó sẽ vô hiệu đối với pháp luật. Về sau các pháp quan mở rộng phạm vi của sự vô hiệu bằng cách công nhận cho người thụ trái một số tố quyền để xin tiêu hủy khế ước để bảo vệ người này khi họ bị trục lợi. Sự phân biệt giữa các tố quyền xin tiêu hủy được luật pháp công nhận và được các pháp quan đặt ra là nguồn gốc nguyên thủy của sự phân biệt giữa vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối [12, tr. 128].
Tuy nhiên Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam không làm rõ hai loại vô hiệu này. Trường Đại học Luật Hà Nội quan niệm "vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên) và vô hiệu tương đối (hay còn gọi là vô hiệu bị tuyên)" [26, tr. 149]; và cách phân loại này dựa vào đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm này. Sự phân loại vô hiệu như trên trước tiên dựa trên nền tảng áp dụng chế tài nhằm bảo vệ lợi ích công hay lợi ích tư. Từ đó dẫn tới các hệ quả kế tiếp liên quan tới các phân loại này. Thực tế không hợp đồng nào bị xem là vô hiệu khi chưa bị tuyên là vô hiệu, bởi hợp đồng vô hiệu có nghĩa là bị hủy do chống lại các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và phát sinh ra các hậu quả pháp lý kèm theo như đã nói ở trên. Vậy tính "đương nhiên" hay tính "bị tuyên" không phải là căn cứ để phân loại, và cũng không thể trở thành tên gọi cho hai loại vô hiệu này.
Khi một hành vi pháp lý bị tuyên là vô hiệu thì về nguyên tắc các bên phải quay trở lại tình trạng ban đầu như chưa bao giờ có hành vi pháp lý như vậy, bởi bản thân nó chưa bao giờ được xem là có hiệu lực do chống lại các điều kiện có hiệu lực hay không đủ tiêu chuẩn. Cho nên các hậu quả sau sẽ phát sinh lập tức khi việc tuyên vô hiệu có hiệu lực:
(1) Nếu giao dịch hay phần nào đó của giao dịch chưa thực hiện thì không được thực hiện nữa;
(2) Các bên phải hoàn trả cho nhau những lợi ích đã nhận từ nhau do việc thực hiện giao dịch trước khi bị tuyên vô hiệu;
(3) Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường; và
(4) Thu nhập bất hợp pháp từ giao dịch có thể bị sung công.
Điều 137, Bộ luật Dân sự 2005 có qui định cụ thể về các hậu quả pháp lý này khi giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu.
Mặc dù không có các qui định cụ thể về chia giao dịch dân sự vô hiệu thành vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối, nhưng Bộ luật Dân sự 2005 đã hé lộ, về hình thức, việc tuyên các giao dịch vô hiệu tuyệt đối không có thời hiệu, còn việc tuyên các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối có thời hiệu. Như vậy có thể hiểu giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối theo Bộ luật Dân sự 2005 bao gồm: (1) các giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội; (2) các giao dịch dân sự giả tạo. Trường Đại học Luật Hà Nội có quan điểm xem giao dịch vô hiệu do không đáp ứng hình thức theo qui định của pháp luật là vô hiệu tuyệt đối, "một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau: a)…c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật (Điều 134 Bộ luật Dân sự)" [26, tr. 151], mặc dù Bộ luật Dân sự 2005 có xác định thời hiệu hai năm cho việc tuyên vô hiệu đối với những giao dịch này (Điều 136). Từ đó có thể suy ra: theo Trường Đại học Luật Hà Nội, việc xác định thời hiệu cho việc tuyên giao dịch vô hiệu không phải là một dấu hiệu của việc xem xét vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối.
1.4. Các quy định về hành vi pháp lý vô hiệu trong Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam
1.4.1. Mô tả và diễn giải các qui định
Luật Phá sản năm 2004 đã dành Chương IV với 18 điều quy định về các biện pháp bảo toàn tài sản. Tại Chương này có 14 điều được xây dựng hoàn toàn mới và 4 điều được phát triển từ Luật Phá sản Doanh nghiệp 1993. Các biện pháp bảo toàn tài sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 bao gồm: Các giao dịch bị coi là vô hiệu (Điều 43); Quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 44); Đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực (Điều 45); Văn bản yêu cầu đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điều 46); Thanh toán, bồi thường thiệt hại khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện (Điều 47); Bù trừ nghĩa vụ (Điều 48); Kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 50); Gửi giấy đòi nợ (Điều 51); Lập danh sách chủ nợ (Điều 52); Lập danh sách người mắc nợ (Điều 53); Đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 54); Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 55); Khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 56); Đình chỉ thi hành án dân sự hoặc giải quyết vụ án (Điều 57); Giải quyết vụ án bị đình chỉ trong thủ tục phá sản (Điều 58); Nghĩa vụ của Ngân hàng nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có tài khoản (Điều 59); Nghĩa vụ của nhân viên và người lao động (Điều 60).
Điều 43, Luật Phá sản năm 2004 qui định các hành vi sau đây thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu:
- Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác;
- Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia;
- Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn;
- Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ;
- Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.