mối quan hệ mang tính đại diện. Cả QTV và chủ nợ đều có những quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ pháp luật giải quyết phá sản của con nợ. Theo đó, nghĩa vụ của chủ thể này là cơ sở để bảo đảm quyền của chủ thể còn lại. Cụ thể:
- Chủ nợ đóng vai trò là người có quyền đề nghị toà án chỉ định QTV để giải quyết vấn đề phá sản của con nợ. Mục đích cuối cùng của việc này là nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ cho chủ nợ. Ở một số quốc gia, thậm chí chủ nợ còn có khả năng chọn trước QTV và đề xuất tên của QTV đó lên Toà án để được phê duyệt4. Như vậy, chủ nợ có vai trò quan trọng trong việc xác lập vai trò pháp lý của một QTV trong một vụ việc cụ thể. Trên cơ sở vai trò đó, chủ nợ có quyền yêu cầu QTV
đại diện mình thực hiện các hoạt động nhằm mục đích thu hồi nợ cho bản thân. Những quyền này cụ thể gồm: quyền yêu cầu QTV quản lý tài sản của pháp nhân hoặc thể nhân đang lâm vào tình trạng phá sản để làm cơ sở đảm bảo khả năng thanh toán nợ cho chủ nợ; quyền được thảo luận và thông qua các nội dung mà QTV đưa ra, đồng thời giám sát hoạt động của chính chủ thể này; quyền kiến nghị Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con nợ… Những quyền này sẽ được đảm bảo bởi những nghĩa vụ mà QTV phải đáp ứng, bao gồm: Nghĩa vụ đại diện chủ nợ trong thủ tục phá sản – thực tế thì với vai trò trung gian, QTV là đại diện cho các bên, tuy nhiên, với mục tiêu giải quyết việc trả nợ một cách công bằng cho các chủ nợ, thì vấn đề đại diện nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có phần trội hơn các đại diện khác.
- QTV đóng vai trò là đại diện cho tất cả các chủ nợ và phân phối các khoản chi trả cho các chủ nợ. Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ sẽ bị cấm đoán hành vi đòi nợ riêng rẽ. Điều này nhằm giúp đảm bảo tính công bằng cho tất cả các chủ nợ như đã đề cập và phân tích ở nhiều khía cạnh trong luận án này. Chính vì thế, các chủ nợ sẽ phải thông qua một đầu mối trung gian để đòi nợ tập thể. Nguồn tài chính của con nợ sẽ được trung gian đó thống kê và tiến hành phân phối nợ cho tất cả các chủ nợ theo nghị quyết của Hội nghị chủ nợ hoặc theo một nguyên tắc nào đó đã được ấn định. Vai trò này thuộc về QTV. Như vậy, có thể thấy, mối quan hệ giữa QTV và chủ nợ là mối quan hệ đại diện đòi nợ. Theo đó, chủ nợ sẽ uỷ quyền cho QTV tiến hành việc đòi nợ, ngược lại, QTV có nghĩa vụ phải đòi nợ và phân phối nợ giữa các chủ nợ.
4 Một số quốc gia cho phép trong một số trường hợp phá sản tự nguyện, chủ nợ có quyền chỉ định quản tài viên mà không thông qua thẩm phán. Việc chỉ định này chỉ cần được sự đồng ý của Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên trường hợp này chỉ mang tính cá biệt.
2.3.4.3. Mối quan hệ giữa quản tài viên v i con nợ
Con nợ (Debtor) hiểu một cách chung nhất là người đã nhận từ người khác một khoản tiền hoặc tài sản hoặc nghĩa vụ gì đó. Để hoàn trả những thứ đã nhận từ chủ nợ, người nợ phải hứa sẽ hoàn lại khoản nợ vào một lúc nào đó trong tương lai. Nếu người nợ không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của mình vào hạn cuối, những biện pháp nhằm đòi lại số bị nợ sẽ được tiến hành. Đôi khi tài sản, tiền lương, hoặc tài khoản ngân hàng sẽ bị chủ nợ kiểm soát nhằm đảm bảo việc trả nợ của người vay nợ. Trong trường hợp này, con nợ chính là chủ thể đang lâm vào tình trạng phá sản và do đó, nghĩa vụ của con nợ là phải thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ. Bản chất của mối quan hệ giữa QTV và con nợ được lý giải là: Người khánh tận phải được đại diện v đã bị tư c quyền quản trị tài sản và ở vào tình trạng không còn ti n h nh được các h nh vi pháp l đối kháng v i chủ nợ.
Do tính chất là một cơ chế hay một phương thức lấy nợ tập thể, ngăn cản việc lấy nợ riêng rẽ trên tài sản còn lại của con nợ, và Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ cho quá trình phá sản, cho nên QTV có bản chất pháp lý là người thụ ủy tư pháp đứng ở trung tâm của mối quan hệ đại diện phát sinh bởi luật. QTV vừa đại diện cho con nợ bị phá sản, vừa đại diện cho các chủ nợ. Bởi con nợ có thể theo khuynh hướng tự làm nghèo cho mình để trốn tránh trách nhiệm trả nợ, có thể trả nợ riêng cho chủ nợ theo sự lựa chọn của mình, và xét ở khía cạnh quản trị, con nợ yếu kém về quản trị để dẫn đến tình trạng phá sản, nên buộc con nợ phải hành động qua một trung gian trong một số hoạt động, nhất là trong mối quan hệ liên quan tới các chủ nợ. Do đó liên quan tới con nợ, QTV có quyền đối với sản nghiệp của con nợ. Quyền này bao gồm:
- Quyền quản lý của QTV đối với sản nghiệp phá sản. Khi mở thủ tục phá sản, sự hiện diện của QTV dù được chủ nợ chỉ định hay thông qua Toà án dưới sự đề xuất của chủ nợ đều có ý nghĩa pháp lý là chủ thể đóng vai trò trung gian, đại diện các bên để tiếp quản tài sản của con nợ. Giới hạn của sự tiếp quản này không giống nhau ở các quốc gia. Tuy nhiên, tựu chung lại đây là việc thụ uỷ quyền quản lý tài sản đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Pháp Luật Phá Sản
- Nội Dung Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Pháp Luật Phá Sản
- Có M T Số Quốc Gia Ở Châu Âu Ti N Hành Cấp Đi M Cho Quản Trị Viên, Thông Thường Thang Đi M
- Thực Tiễn Quy Định Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Quản Tài Viên Theo Luật Phá Sản
- Các Quyền V Nghĩa V Chung Của Quản Tài Viên
- Thực Tiễn Quy Định Về Trách Nhiệm Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Luật Phá Sản
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Quyền quản lý tài sản được thực hiện với vai trò là người đại diện chủ nợ để quản lý khối tài sản có thể trở thành khoản thanh toán nợ một cách công bằng và hợp lý cho các chủ nợ. Bên cạnh đó, việc quản lý sản nghiệp phá sản cũng xuất phát từ vai trò đại diện Toà án trong thủ tục phá sản – chính xác hơn là giúp chia sẻ công
việc quản lý sản nghiệp phá sản cho Toà án trong tố tụng phá sản như đã phân tích ở phần mối quan hệ giữa QTV và Toà án.
- Quyền can thiệp của QTV đối với sản nghiệp phá sản. Mối quan hệ này trên thực tế chia thành hai trường phái khác nhau: (1) QTV tự do lựa chọn phương án và tiến hành xử lý sản nghiệp phá sản để thanh toán nợ cho các chủ nợ theo những nguyên tắc đã định và/hoặc theo ý kiến của Hội nghị chủ nợ; (2) QTV đưa ra phương án xử lý sản nghiệp phá sản và trình Toà án phê duyệt. Hai xu hướng này đều đang tồn tại và có những ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, tựu chung lại đều trao cho QTV khả năng quyết định số phận của sản nghiệp phá sản. Đây là mối quan hệ trọng tâm, quyết định đến kết quả của quá trình phá sản.
Mối quan hệ giữa con nợ và QTV còn được thể hiện thông qua vai trò thứ hai của sự tham gia của QTV vào thủ tục phá sản là để thực hiện mục tiêu khôi phục tình trạng sản xuất, kinh doanh cho con nợ. Theo đó, hầu hết đều thừa nhận rằng, một trong những nguyên nhân khiến cho con nợ lâm vào tình trạng phá sản chính là khả năng quản trị của con nợ yếu kém. Như vậy, khi thực hiện thủ tục phá sản, QTV sẽ tiếp quản tạm thời quyền điều hành hoạt động của con nợ, từ đó xác định khả năng khôi phục hay phá sản của con nợ, thậm chí ở nhiều quốc gia cho phép QTV đề xuất Toà án thay thế đội ngũ quản lý của chủ thể đang lâm vào tình trạng phá sản.
Tóm lại, mối quan hệ này giữa QTV và con nợ, có thể thấy, nghĩa vụ của con nợ là bàn giao tạm thời quyền quản lý cho QTV (bên cạnh bàn giao hiện trạng sản nghiệp phá sản) và thực hiện các nghĩa vụ phối hợp với QTV để giải quyết thủ tục phá sản. Trong đó, nghĩa vụ quan trọng nhất là cung cấp các thông tin về sản nghiệp và tình hình sản xuất, kinh doanh của chủ thể lâm vào tình trạng phá sản. Ở phía ngược lại, QTV có quyền quản lý sản nghiệp và hoạt động của chủ thể phá sản tạm thời, nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn sản nghiệp đó cũng như phải có phương án khôi phục tình trạng sản xuất, kinh doanh để thống nhất với con nợ khi có cơ sở cho rằng chủ thể phá sản có thể phục hồi.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Kết quả nghiên cứu của Chương 2 cho thấy, QTV là một định chế trung gian trong thủ tục phá sản, nhằm thay mặt các bên quản lý sản nghiệp phá sản, xây dựng phương án phục hồi chủ thể đang lâm vào tình trạng phá sản và thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ dựa trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng và hợp lý. Địa vị pháp lý của QTV được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của QTV, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của QTV trong thủ tục phá sản và thể hiện vị trí của QTV trong mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định của pháp luật về phá sản. Nội dung địa vị pháp lý của QTV bao gồm: điều kiện trở thành QTV; quyền và nghĩa vụ của QTV; trách nhiệm pháp lý của QTV và mối quan hệ của QTV với các chủ thể khác trong thủ tục phá sản. Địa vị pháp lý của QTV có mục đích nhằm xác lập một định chế chuyên nghiệp giúp Toà án và các bên liên quan giải quyết thủ tục phá sản của chủ thể đang lâm vào tình trạng phá sản. Ý nghĩa địa vị pháp lý của QTV bao gồm: xác lập một nghề mang tên QTV với đầy đủ các cấu thành của địa vị pháp lý nhằm đảm bảo tính chuyên nghiệp và hiệu quả khi thực hiện công việc hỗ trợ thực hiện thủ tục phá sản; đặt ra những điều kiện hành nghề QTV nhằm đảm bảo được chất lượng yêu cầu của nghề nghiệp; giới hạn những quyền và nghĩa vụ của QTV nhằm tránh sự lạm quyền; thiết lập mối quan hệ giữa QTV và các chủ thể khác có liên quan trong thủ tục phá sản để đảm bảo cơ chế tôn trọng, phối hợp thông suốt trong quá trình giải quyết phá sản.
Những kết quả nghiên cứu lý luận được trình bày trong Chương 2 dĩ nhiên không thể bao quát và sâu sắc hoá mọi khía cạnh lý luận về vấn đề địa vị pháp lý của QTV. Tuy nhiên, ở góc độ nhất định của luận án, những vấn đề lý luận này đã cơ bản lý giải được những vấn đề lý luận giúp nhận biết về QTV trong quy chế pháp lý nói chung, từ đó làm cơ sở cho hoạt động nghiên cứu và đánh giá thực tiễn cũng như kết quả thực hiện địa vị pháp lý của QTV ở Việt Nam được trình bày tại Chương 3 của luận án.
Chương 3
THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA QUẢN TÀI VIÊN
THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
3.1. Lược sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của Quản tài viên.
Những hạn chế của Luật Phá sản năm 2004, cùng với những đòi hỏi mới của thực tiễn khách quan đã đặt ra yêu cầu thay thế văn bản pháp lý này. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội XIII, Luật Phá sản năm 2014 đã chính thức được thông qua ngày 19/06/2014, bao gồm 9 chương, 133 điều và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 đồng thời thay thế cho Luật Phá sản năm 2004. Đây là bước tiến đáng kể của Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng DN trong việc thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết. Luật Phá sản năm 2014 của Việt Nam một lần nữa chỉ xác định chủ thể lâm vào tình trạng phá sản là Doanh nghiệp và Hợp tác xã. Luật Phá sản năm 2014 là văn bản luật hoàn chỉnh nhất và đầy đủ nhất trong việc giải quyết các vấn đề phá sản của DN, HTX bằng cách xác định lại điều kiện được tuyên bố phá sản và các quy định về nội dung, thủ tục khác mang tính rút gọn, chi tiết và khoa học hơn.
Cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật này gồm có các văn bản pháp lý như:
- Nghị định 22/2015/NĐ-CP ban hành ngày 16 tháng 02 năm 2015, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về QTV và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
- Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 8 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản DN, HTX.
- Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP ngày 26/8/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản.
- Thông tư số 224/TT- TC ngày 10 tháng 11 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề, hoạt động quản lý, thanh lý tài sản; lệ phí cấp chứng chỉ hành nghề QTV (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017).
Một trong những thay đổi quan trọng của Luật Phá sản năm 2014 so với các văn bản pháp lý cùng nội dung trước đó chính là sự ra đời của định chế QTV và
Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản với những ghi nhận về địa vị pháp lý của QTV và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tương đối đầy đủ, thay thế cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004.
Theo giải thích mà Luật Phá sản 2014 đưa ra thì ―QTV là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán trong quá tr nh giải quy t phá sản‖ (Khoản 7 Điều 4 Luật Phá sản 2014). Như vậy, nếu như trước đây pháp luật phá sản của Việt Nam trao quyền quản lý tài sản của DN, HTX bị mở thủ tục phá sản cho một tập thể (tổ quản lý, thanh lý tài sản) thì với Luật Phá sản năm 2014, việc quản lý này được trao cho một cá nhân là QTV hoặc một tổ chức với tên gọi là Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thiết kế dưới dạng một công ty hợp danh hoặc một doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được quy định dưới góc độ của pháp luật phá sản là: ―Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá tr nh giải quy t phá sản” (Khoản 8 Điều 4 Luật Phá sản 2014).
Nói tóm lại, việc giao trách nhiệm quản lý tài sản của DN, HTX bị mở thủ tục phá sản cho QTV hoặc Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản nằm trong bối cảnh sau:
Thứ nhất, cơ ch phối hợp giữa các thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản DN năm 1993 v Luật Phá sản năm 2004 r c rối và kém hiệu quả. Cụ thể, trong Luật Phá sản DN năm 1993, việc kiểm tra, giám sát, quản lý và thanh lý tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán được giao cho hai tổ chuyên môn là: tổ quản lý tài sản do Tòa án thành lập và tổ thanh lý tài sản do cơ quan thi hành án thành lập. Trong một thời gian dài, hoạt động của hai tổ quản lý và tổ thanh lý tài sản theo Luật Phá sản DN năm 1993 triển khai thiếu tính đồng bộ, thiếu tính hiệu quả, không phát huy hết thế mạnh của mình do cơ cấu cồng kềnh, cơ chế ra quyết định khá phức tạp, không phù hợp với thực tiễn thi hành và áp dụng luật phá sản. Khắc phục điểm yếu đó, Luật Phá sản năm 2004 đã gộp hai tổ quản lý và thanh lý tài sản làm một gọi chung là Tổ quản lý và thanh lý tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 cho thấy hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản vẫn không hiệu quả do có nhiều người tham gia quá trình xử lý công việc, làm cho quy trình thêm phức tạp và gây chậm trễ trong việc tiến hành giải quyết thủ tục phá sản.
Thứ hai, xuất phát từ nhu c u về xã h i hoá các hoạt đ ng mang tính nghề nghiệp. Nếu giao cho Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện quản lý, thanh lý tài sản thì không thực hiện chủ trương xã hội hoá những hoạt động mang tính nghề nghiệp, không phù hợp với đặc thù giải quyết tuyên bố phá sản, không phù hợp với pháp luật quốc tế, không phù hợp quan điểm của Đảng và nhà nước ta về cải cách hành chính. Bên cạnh đó, nhu cầu xây dựng hoạt động quản lý, thanh lý tài sản thành một nghề chuyên nghiệp cần có sự thay đổi trong cách tổ chức chủ thể thực hiện quản lý, thanh lý tài sản từ một nhóm gồm đại diện các bên sang một cá nhân thoả mãn những điều kiện hành nghề nhằm đảm bảo cho hoạt động diễn ra hiệu quả, chuyên nghiệp và dễ dàng áp đặt trách nhiệm pháp lý cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp cho sự ghi nhận về địa vị pháp lý của QTV trong Luật Phá sản năm 2014.
Thứ ba, xuất phát từ xu hư ng của th gi i về địa vị pháp lý của QTV trong phá sản DN. Trên thế giới, đa số các quốc gia đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế tự do đều ghi nhận về QTV với nhiều tên gọi khác nhau từ rất lâu đời. Sự hiện diện của QTV mang đến tính công bằng, bình đẳng và hợp lý khi thanh toán nợ cho các chủ nợ và mang đến sự trật tự trong thủ tục phá sản của một DN. Địa vị pháp lý của QTV được ghi nhận một cách đầy đủ và chặt chẽ ở các quốc gia này là tiền đề để QTV hoạt động hiệu quả trên thực tiễn. Với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam không thể tự đặt mình đứng ngoài sự phổ biến của các định chế pháp lý. Do đó, ghi nhận địa vị pháp lý của QTV là một tất yếu của tiến trình lịch sử hội nhập đó.
3.2. Thực tiễn quy định của pháp luật phá sản Việt Nam về địa vị pháp lý của quản tài viên
3.2.1. Thực tiễn quy định điều kiện hành nghề quản tài viên theo luật phá sản
Luật Phá sản năm 2014 và Nghị định 22/2015/NĐ-CP ban hành ngày 16 tháng 02 năm 2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về QTV và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản, quy định QTV phải đáp ứng các điều kiện hành nghề cụ thể. Tác giả phân tích thực trạng quy định này thành 02 nội dung chính gồm: điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề QTV và điều kiện được chỉ định tham gia giải quyết một thủ tục phá sản.
Thứ nhất, điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề QTV. Đây là những quy định pháp luật về những điều kiện để một cá nhân được xem xét cấp chứng chỉ hành nghề QTV. Muốn được chỉ định tham gia thủ tục phá sản, trước hết phải được cấp
chứng chỉ hành nghề QTV. Pháp luật hiện hành quy định khá chi tiết về các điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề QTV. Theo đó, mặc dù được xem là một nghề, song QTV không phải là một cá nhân hành nghề độc lập do quy chế pháp lý hiện hành liên quan đến điều kiện hành nghề của QTV có những ghi nhận cho thấy điều đó. Cụ thể:
- Người đăng ký hành nghề QTV phải đang hành nghề Luật sư; Kiểm toán viên hoặc người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo. Như vậy, với quy định này rõ ràng nghề QTV là một nghề phái sinh của một nghề cụ thể, mà trong trường hợp này là luật sư; kiểm toán viên hay các nghề liên quan đến luật, tài chính và kinh tế. Thậm chí, ngoài Luật sư và Kiểm toán viên, thì các ngành nghề còn lại của người tốt nghiệp các văn bằng như liệt kê ở trên cũng phải có thâm niên công tác trên 05 năm. Quy định này của Việt Nam có sự tương đồng với pháp luật của Hàn Quốc về nhóm các ngành nghề, do đó cũng có sự giống nhau trong việc xem xét tính chất là
―một nghề‖ của QTV.
Cơ sở giải thích cho quy định này nằm ở tính chất phức tạp của QTV cũng như cơ chế đào tạo của QTV hiện nay. QTV đóng vai trò trung gian để quản lý và thanh lý tài sản do đó đòi hỏi rất cao về hiểu biết tổng hợp các chuyên ngành: pháp lý, tài chính, kế toán. Bên cạnh đó, QTV còn tham gia vào hoạt động phục hồi doanh nghiệp nên cần có hiểu biết về: kinh tế, doanh nghiệp, thuế, ngân hàng. Chính vì vậy, điều kiện tiên quyết phải là người đang thực hiện các nghề có liên quan và bao gồm cả thâm niên công tác trên 05 năm là cơ sở để đảm bảo bước đầu về chuyên môn, hiểu biết xã hội và sự ổn định của tâm lý. Bên cạnh đó, khác với nghề Luật sư và Kiểm toán viên vốn đang có những chương trình đào tạo nghề rất công phu, bài bản và được sát hạch để cấp chứng chỉ hành nghề một cách chặt chẽ, hiệu quả, thì QTV hiện nay chưa có một chương trình độc lập như thế. Chính vì vậy, quy định đang hành nghề Luật sư và Kiểm toán viên chính là việc tận dụng chương trình đào tạo của hai ngành nghề này.
Về cơ bản có thể thấy, quy định này hoàn toàn phù hợp với tình hình pháp luật và đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh chương trình đào tạo chuyên ngành pháp lý và tài chính bậc đại học vẫn còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn cũng như chú trọng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp đã không cho phép đặt điều kiện cho những tân cử nhân ứng tuyển vào nghề QTV ngay. Đồng thời quy định này cũng