Điều Ước Quốc Tế, Văn Bản Pháp Luật Quốc Gia

Hiện nay, khi các thỏa thuận tự do hóa thương mại khu vực trở nên phổ biến, các nước tham gia thực hiện thỏa thuận tạo điều kiện cho người lao động nước ngoài của một số nước được hưởng những quyền rộng hơn người lao động đến từ các nước khác. Chẳng hạn như theo thỏa thuận trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cho phép 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do di chuyển trong khối ASEAN, gồm nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát và du lịch. Hay với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hình thức di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới, bao gồm kinh doanh, thông tin, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, tài chính, y tế, du lịch, văn hóa giải trí và vận tải thì không cần phải có giấy phép lao động.

1.3.1.4. Nguyên tắc có đi có lại (Reciprocity)


Theo nguyên tắc có đi có lại, nước này sẽ dành một số quyền, nghĩa vụ nhất định cho công dân nước kia ở nước này trên cơ sở những điều kiện thực tế cụ thể phát sinh trong quan hệ giữa hai nước hữu quan và công dân nước này cũng được hưởng sự đối xử tương tự tại nước kia. Quy chế này thể hiện dưới các hành động có đi có lại và bao gồm hai dạng là có đi có lại thực chất và có đi có lại hình thức. Các hoạt động có đi có lại thực chất cho phép công dân một nước ngoài nhất định được hưởng một chế độ pháp lý nhất định, có một số quyền lợi hoặc ưu đãi nhất định khi có đủ căn cứ để khẳng định sự tồn tại những điều kiện thực tế, cụ thể trong quan hệ giữa hai nước hữu quan và thường dựa vào các quy tắc đối ngoại của nước sở tại trong trường hợp pháp luật không quy định rõ vấn đề đó. Còn quy chế có đi có lại hình thức lại cho phép công dân của một nước ngoài nhất định, được hưởng một chế độ pháp lý nhất định, những quyền lợi và ưu đãi nhất định trên cơ sở các điều kiện thực tế nhất định theo quy định pháp luật của nước sở tại.

Ví dụ như tại khoản b, Điều 423 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 201510 tiếp tục kế thừa và khẳng định quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về thực hiện nguyên tắc có đi có lại trong việc xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài trên cơ sở có đi có lại. Khoản b, Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định như sau: “Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại”. Ngoài ra còn nhiều quy định khác thể hiện nguyên tắc có đi có lại như trong trường hợp một số giấy tờ nước ngoài trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo nguyên tắc có đi có lại.

Trong trường hợp một hành động đơn phương của một nước này như bãi bỏ việc áp dụng quy chế pháp lý đã được các bên thỏa thuận dành cho công dân của các bên hữu quan gây thiệt hại hoặc làm hạn chế quyền lợi của công dân nước kia thì quốc gia kia có thể đối phó lại hay trả đũa lại bằng hành vi tương tự với cộng dân của nước này. Đây được gọi là biện pháp báo phục quốc. Song việc áp dụng những biện pháp hạn chê đối với một quốc gia nước ngoài phải thực hiện phù họp với các nguyên tắc của Luật Quốc tế. Chế độ này không thể bị coi là sự vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, việc áp dụng đến mức độ nào các chế độ nêu trên đối với người nước ngoài ở các nước là hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ kinh tế- xã hội, lợi ích quốc gia và quan hệ giữa các quốc gia với nhau.

1.3.2. Điều ước quốc tế, văn bản pháp luật quốc gia


1.3.2.1. Điều ước quốc tế


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.


10 Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua vào ngày 24/11/2015, sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2017 (viết tắt là Bộ luật Dân sự năm 2015).

Địa vị pháp lý của người lao động nước ngoài tại Việt Nam - 4

Các điều ước quốc tế về lao động mà Việt Nam đã tham gia góp phần quan trọng tạo nên địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam cũng như các nước trên thế giới dựa vào các điều ước quốc tế, kể cả điều ước đã tham gia và chưa tham gia, để xây dựng pháp luật quốc gia.

*Bộ luật Nhân quyền Quốc tế


Lao động là một trong những quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực lao động. Điều này cũng được thể hiện trong Bộ luật Nhân quyền Quốc tế. Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cùng hai Nghị định thư không bắt buộc I và II. Hiện nay, Việt Nam chưa tham gia hai Nghị định thư không bắt buộc I và II.11

Tuyên ngôn toàn thê giới về nhân quyền ngày 10/12/1948 gồm lời nói đầu và 30 điều đã khẳng định một nguyên tắc có tính chân lý, xuyên suốt trong tất cả các hoạt động về lĩnh vực nhân quyền đó là: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về phẩm giá và các quyền, đều được hưởng các quyền và tự do cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tải sản, giống nòi hay các tình trạng khác”. Từ Điều 22 đến Điểu 28 tuyên bố về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá nhằm mục đích đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và tự do nhân cách cá nhân con người. Trong 30 điều của bản tuyên ngôn, có nhiều điều đề cập đến quyền con người trong lĩnh vực lao động như quyền có việc làm, quyền tự do chọn nghề nghiệp, quyền được trả lương công bằng và xứng đáng, quyền thành lập và gia nhập công đoàn (Điều 23); quyền được nghỉ ngơi và giải trí (Điều 24); quyền được đảm bảo phúc lợi xã hội như nhà ở, chăm sóc y tế, bảo hiểm (Điều 25); Điều 29 và Điều 30 của Tuyên ngôn khẳng định nguyên tắc quyền phải đi đôi với nghĩa vụ và tự do không phải là tuyệt đối mà phải chịu sự hạn chế do luật định. Mặc dù không phải là một văn bản có giá trị pháp lý bắt


11 Danh sách các quốc gia tham gia Nghị định thư bổ sung I và II, <https://treaties.un.org>, [Truy cập ngày 22/4/2016].

buộc nhưng những điều khoản và ý tưởng đầy tính nhân văn, tiến bộ của bản Tuyên ngôn có ảnh hưởng sâu sắc đến các chính sách, pháp luật và hành vi của các quốc gia trong việc đảm bảo và tôn trọng quyền con người nói chung và quyền của người lao động nói riêng.

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - viết tắt là ICESCR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16/12/1966, Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Công ước gồm Lời nói đầu, 5 phần với 31 Điều, trong đó có các điều liên quan tới quyền của người lao động như quyền làm việc, quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống, các quốc gia thành viên sẽ thi hành các biện pháp như huấn luyện kỹ thuật hay hướng nghiệp để bảo đảm quyền (Điều 6); quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi; đặc biệt phải được trả lương thoả đáng đủ để đảm bảo cuộc sống của họ và gia đình, được làm việc trong môi trường an toàn và vệ sinh, được có cơ hội được đề bạt lên chức vụ cao hơn trên cơ sở thâm niên và khả năng công tác, được có thời gian nghỉ ngơi rảnh rỗi (Điều 7); quyền được thành lập và gia nhập công đoàn, quyền đình công và bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động trên cơ sở những quy định của pháp luật quốc gia (Điều 8); quyền được hưởng an toàn xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội (Điều 9); quyền được giúp đỡ và bảo hộ về mặt gia đình.

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights - viết tắt là ICCPR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16/12/1966 (Có hiệu lực từ ngày 23/3/1976), Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Công ước gồm Lời nói đầu, 6 phần với 53 điều, điều chỉnh những quyền cơ bản của con người thuộc phạm trù các quyền dân sự, chính trị, trong đó, có quy định một số quyền liên quan tới quyền của người lao động nước ngoài như quyền tư do đi lại và cư trú được bảo đảm, quyền này chỉ có thể bị hạn chế bởi những lý do luật định để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội quyền và tự do cửa người khác (Điều 12); Người nước ngoài cư trú hợp pháp

chỉ có thể bị trục xuất theo những quyết định phù hợp pháp luật. Người bị trục xuất có quyền phản đối, khiếu nại và yêu cầu xem xét lại (Điều 13).

Sau hơn 30 năm qua kể từ ngày gia nhập ICCPR, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể để bảo đảm và phát huy các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, dân sự và chính trị được quy định trong ICESCR và ICCPR, trong đó thể hiện rõ nét ở việc nội luật hóa các quy định của công ước này trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Có thể thấy rằng hệ thống pháp luật Việt Nam đã ghi nhận đầy đủ các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị (như trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Bộ luật Lao động,…). Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam phù hợp với quy định của hai công ước trên.

*Các văn kiện tiêu biểu của Tổ chức Lao động Quốc tế và Đại hội đồng Liên hợp quốc

Với xu hướng hội nhập hiện nay, việc các quốc gia tham gia vào các công ước quốc tế đa phương là tất yếu. Việt Nam cũng vậy, ngoài những công ước đã tham gia, cần xem xét để chuẩn bị những điều kiện để tạo cơ sở cho việc gia nhập những công ước đa phương khác có liên quan tới người lao động nước ngoài. Có thể nói hầu hết các điều ước quốc tế đa phương có liên quan đến người lao động nước ngoài là do Đại hội đồng Liên hợp quốc Tổ chức lao động Quốc tế (ILO)12 ban hành. Việt Nam gia nhập ILO năm 1980 nhưng đến năm 1982, Việt Nam rút khỏi ILO vì một số lý do kỹ thuật, năm 1993 Việt Nam tái gia nhập ILO.13 Về Liên hợp quốc, Việt Nam đã chính thức gia nhập Liên hợp quốc vào ngày 20/9/1977, tính đến nay đã được gần 39 năm.

Cuối những năm 1930, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ban hành một số điều ước về lao động di trú. Điều ước quốc tế đầu tiên đề cập tới vấn


12 Tổ chức Lao động Quốc tế, viết tắt ILO là một cơ quan đặc biệt của Liên Hiệp Quốc liên quan đến các vấn đề về lao động.

13 “Tổ chức Lao động quốc tế và quan hệ với Việt Nam”, < http://www.mofahcm.gov.vn>, [Truy cập ngày: 22/4/2016].

đề này của ILO là Công ước di trú vì việc làm, được thông qua tại Kỳ họp thứ 25 ngày 8/6/1939 của ILO. Công ước này được sửa đổi bằng Công ước về lao động di trú (Công ước số 97 năm 1949) (Việt Nam chưa tham gia công ước này). Sau đó, ILO thông qua Công ước số 143 (vào năm 1975) về người di trú trong môi trường bị lạm dụng và việc thúc đẩy sự bình đẳng về cơ hội trong đối xử với người lao động di trú (Việt Nam chưa tham gia công ước này).

Một văn kiện quan trọng không thể không nhắc đến của ILO đó là Tuyên bố về các Nguyên tắc cơ bản và các Quyền tại nơi làm việc (Declaration on Fundamental Principles and Rights at Work ngày 18 tháng 6 năm 1998 (gọi tắt là Tuyên bố năm 1998 của ILO). Nguyên tắc này nhanh chóng được khẳng định và thừa nhận bởi Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế cũng như các học giả trên thế giới. Đa phần các hiệp định tự do thương mại hiện nay đều viện dẫn đến tuyên bố này. Tuyên bố năm 1998 của ILO khẳng định 4 nhóm quyền và nguyên tắc cơ bản tại nơi làm việc gồm: Tự do hiệp hội và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc; xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em và xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc. Theo ILO, các quyền và nguyên tắc cơ bản được quy định trong 8 Công ước của ILO, bao gồm: Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức năm 1948; Công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể năm 1949; Công ước số 29 về xóa bỏ lao động cưỡng bức năm 1930; Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức năm 1957; Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ năm 1951; Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử trong công việc năm 1958; Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu năm 1973 và Công ước số 182 về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999.

Tuyên bố năm 1998 của ILO yêu cầu các quốc gia thành viên tôn trọng, ghi nhận và bảo đảm các nguyên tắc và quyền nêu trong 8 Công ước cơ bản nêu trên với tư cách là thành viên ILO ngay cả khi quốc gia thành viên đó chưa phê chuẩn các Công ước này. Với sự quan tâm bảo đảm điều kiện lao động tốt nhất cho người lao động, Việt Nam đã chủ động phê chuẩn

5 công ước cơ bản của ILO, bao gồm các công ước số 29; 100; 111; 138 và 182 và nội luật hóa vào pháp luật Việt Nam. Với 3 công ước cơ bản còn lại là các Công ước số 87, 98 và 105, Việt Nam đã và đang tiến hành nghiên cứu để chuẩn bị những điều kiện cần thiết để có thể gia nhập các công ước này.

Ngày 28/7/1972, Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc (ECOSOC) đã thông qua Nghị quyết số 1706 (LIII) bày tỏ sự lo ngại và lên án việc tuyển dụng trái pháp luật, đưa lậu người lao động vào một số nước châu Âu và phân biệt đối xử với người lao động di trú, đồng thời yêu cầu các quốc gia có liên quan phải thông qua và thực thi các biện pháp toàn diện để trừng phạt những kẻ vi phạm và ngăn chặn tình trạng này. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng thông qua Nghị quyết số 2920 (XXVII) ngày 15/11/1972 kêu gọi các Chính phủ, thực hiện các biện pháp nhằm chấm dứt sự phân biệt đối xử và cải thiện điều kiện sống của người lao động di trú trên lãnh thổ nước mình. Liên Hợp Quốc còn kêu gọi các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc phê chuẩn các công ước có liên quan của ILO, ký kết các hiệp ước song phương để điều chỉnh vấn đề lao động di trú và bảo vệ người lao động di trú.

Đến năm 1990, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Công ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ. Hiện có 48 quốc gia là thành viên, 38 quốc gia khác đã ký kết nhưng chưa phê chuẩn, Việt Nam chưa tham gia công ước này14. Công ước này bảo vệ các quyền tự do cơ bản của người lao động nhập cư, không phân biệt giới tính, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là các quyền:

- Thành viên của gia đình người lao động nhập cư không bị lao động cưỡng ép hoặc bắt buộc, không bị giữ trong tình trạng nô lệ, mất tự do, và không bị tước sở hữu cá nhân hoặc sở hữu chung với những người khác.

- Được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn so với công dân của nước sở tại về điều kiện lao động.

Ngày 15/11/2000, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị định thư Palermo về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người,


14 <https://treaties.un.org/Pages>. [Truy cập ngày: 11/3/2016].

đặc biệt là phụ nữ và trẻ em góp phần quan trọng trong bảo vệ người lao động di trú, Việt nam tham gia nghị định thư này vào ngày 08/7/2012. Vào năm 2000, theo đề nghị của Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hiệp Quốc (ECOSOC), Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lấy ngày 18/12 hàng năm là Ngày Quốc tế về người lao động di trú. Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước có liên quan của tổ chức này phải kể đến như Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (Việt Nam gia nhập ngày 9/6/1981); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Việt Nam ký ngày 27/11/1981, Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước này vào tháng 2/1982).

Mặc dù vấn đề lao động di trú quốc tế đã được quan tâm nhưng số lượng thành viên tham gia các công ước có liên quan của ILO và Liên Hợp Quốc vẫn còn rất hạn chế.

* Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú

Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được các nước trong khối thông qua vào tháng 1/2007. Trong đó thừa nhận trách nhiệm của các nước nhận và nước gốc cũng như của Hiệp hội ASEAN trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú, nhưng Tuyên bố này không phải là một văn kiện có tính ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý. Điều này khiến hiệu lực tác động của Tuyên bố rất hạn chế. Nhiều quốc gia thuộc ASEAN cũng đã ký kết những thỏa thuận song phương để tăng cường hợp tác trong các vấn đề di cư lao động, tiêu biểu như Campuchia đã ký kết các hiệp định về loại trừ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em và trợ giúp nạn nhân của tội phạm này với Thái Lan (năm 2003) và Việt Nam (năm 2005); Chính phủ Malaysia đã ký kết các hiệp ước, bản ghi nhớ về sử dụng lao động di trú với các nước Brunay, Indonexia, Philippin, Việt Nam. Indonexia đã ký kết các thỏa thuận về người lao động di trú với Malaysia, Oxtraylia, Thái Lan, Niu Dilan.

* Các hiệp định tự do thương mại

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 07/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí