Những Kết Quả Mới Đạt Được Trong Nghiên Cứu 47756


Do đó việc nghiên cứu đề tài “Vận dụng và mở rộng phương thức TTDA, góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam” sẽ mang lại ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận lẫn giá trị thực tiễn.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan

Theo tác giả được biết thì cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào cả trong và ngoài nước về việc vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia. Hầu hết các sách viết về TTDA được xuất bản nghiên cứu trong gần hai thập kỷ qua của nhiều tác giả trên thế giới có thể chia thành các phương pháp tiếp cận như sau:

- Về thủ tục, chẳng hạn như quyển TTDA của Pahwa (1991) viết về chính sách, quy định và các thủ tục;

- Nghiên cứu tình huống, chẳng hạn quyển sách về TTDA của Lang (1998) và TTDA hiện đại: một quyển sách điển cứu của Esty (2004);

- Về tài trợ, chẳng hạn như TTDA của Finnerty (1996) và của Nevitt và Fabozzi (2000);

- Luật pháp, chẳng hạn như Luật và kinh doanh về TTDA quốc tế của Hoffman (2001);

- Tổng hợp về tài trợ, kỹ thuật, kinh tế, môi trường và luật pháp, chẳng hạn như sách về Tài trợ các dự án lớn của Khan và Parra (2003);

- Các bài báo phân tích mang tính hàn lâm trên các tạp chí học thuật, chẳng hạn như Shah và thakor (1997), Chemmanur và John (1996).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 301 trang tài liệu này.

Ở Việt Nam, phương thức TTDA đã từng được Quỹ phát triển quốc gia trước năm 1975 nghiên cứu và xuất bản vào năm 1972 thành 2 tập sách có tựa đề “Phương thức nghiên cứu và tài trợ DAĐT”. Nội dung 2 tập sách này chủ yếu hướng dẫn các nhà đầu tư nghiên cứu soạn thảo DAĐT ở các phương diện bao gồm: thị trường, kỹ thuật công nghệ, tổ chức sản xuất, phân tích tài chính, lợi ích kinh tế - xã hội (tập 1) và phương thức TTDA (tập 2) bao gồm việc hướng dẫn lập kế hoạch tài trợ và các định chế tài chính TTDA trong và ngoài nước. Tuy nhiên, kể từ sau năm 1975, phương thức TTDA không còn được nhắc đến trong hoạt động của các TCTD cũng như trong các chương trình giảng dạy bậc đại học ở Việt Nam.

Mãi đến năm 1995 khi chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright được ký kết giữa chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ thì phương thức TTDA mới bắt đầu được đưa vào giảng dạy trong học phần tài chính phát triển. Kể từ thời điểm đó đến nay, ở Việt Nam cũng đã có một vài bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học trong nước như bài viết của tác giả Nguyễn Thu Hiền đăng trên Tạp chí phát triển kinh tế số 125 (2001) với tiêu đề: “Phương thức TTDA, Lối ra cho tư nhân hoá CSHT và tiện ích công cộng” và bài viết của tác giả Phạm Anh Dũng với tiêu đề: “TTDA sự cần thiết đối với doanh nghiệp Việt Nam” đăng trên Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số 1 (2004), v.v.

Vận dụng và mở rộng phương thức tài trợ dự án, góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam - 32

Trong lĩnh vực nghiên cứu, đề tài về lĩnh vực TTDA hầu như chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Vào năm 2005, tác giả của luận án này cũng đã bảo vệ thành công luận văn cao học của mình tại Đại học Kinh tế thành phố


HCM với đề tài: “Vận dụng phương thức TTDA mở rộng tín dụng trung dài hạn trong điều kiện Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu của tác giả vào năm đó cũng chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ sự khác nhau giữa phương thức TTDA với các phương thức cấp tín dụng trung dài hạn cho các DAĐT, qua đó đề xuất các giải pháp phù hợp với bối cảnh hiện tại của nền kinh tế Việt Nam. Luận án này là sự kế thừa và tiếp nối những kết quả đã đạt được trong luận văn thạc sĩ trước đây của tác giả.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu của luận án là để cho thấy rằng, phương thức TTDA là một trong những giải pháp tối ưu để thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong và ngoài nước, tham gia vào việc đầu tư phát triển CSHT của các quốc gia, nhất là ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Mặt khác, mục đích nghiên cứu của luận án cũng nhằm phân tích khả năng vận dụng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp cho việc vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam trong thời gian tới, qua đó góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển cho nền kinh tế Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực trạng về việc vận dụng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam trong thời gian qua. Bên cạnh đó, luận án cũng nghiên cứu về khả năng vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam trong thời gian tới.

Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận án cũng được giới hạn trong phạm vi các hoạt động TTDA do các TCTD ở Việt Nam thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến năm 2012.

5. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu

Luận án sử dụng cơ sở lý luận mang tính tổng quan về DAĐT bao gồm khái niệm và các đặc trưng cơ bản của một DAĐT, các loại DAĐT và các phương diện nghiên cứu của một DAĐT. Bên cạnh đó, luận án cũng đã trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý luận về các phương thức cấp tín dụng trung dài hạn truyền thống cho các DAĐT và phương thức TTDA.

Các giả thuyết nghiên cứu và giả thuyết khoa học mà tác giả sử dụng trong luận án này là dựa trên khái niệm và các đặc điểm của một khoản TTDA đã được các nhà nghiên cứu và hoạt động ngân hàng thực tiễn ở các nước phát triển thống nhất nhau trong những năm gần đây. Theo đó, thuật ngữ TTDA sẽ được sử dụng một cách giới hạn hơn để chỉ các cấu trúc tài trợ chỉ dựa trên tính khả thi và triển vọng thành công của dự án, mà không phải dựa trên tài sản bảo đảm hoặc các hỗ trợ của người khởi xướng dự án là chủ yếu để đưa ra các quyết định tín dụng như trong các phương thức cấp tín dụng truyền thống cho các DAĐT của các TCTD. Chính vì lẽ đó nó đòi hỏi các TCTD phải thẩm định các DAĐT một cách chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, lợi ích mà nó mang lại cho các TCTD cũng hấp dẫn hơn so với các phương thức cấp tín dụng trung dài hạn truyền thống cho các DAĐT của các doanh nghiệp.


6. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong luận án này, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

- Phương pháp mô tả được sử dụng để mô tả một cách chi tiết về các phương thức cấp tín dụng truyền thống và phi truyền thống (TTDA) cho các DAĐT;

- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê về mặt số lượng các DAĐT tiêu biểu được các TCTD ở Việt Nam tài trợ theo phương thức TTDA trong những năm gần đây;

- Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích những ưu điểm và những hạn chế của từng phương thức cấp tín dụng cho các DAĐT, phân tích tình hình vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2002 - 2012;

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để cho thấy tất cả các phương thức cấp tín dụng và tài trợ cho các DAĐT mà các TCTD ở Việt Nam đang sử dụng;

7. Những kết quả mới đạt được trong nghiên cứu

- Cho thấy được các TCTD ở Việt Nam chưa có sự phân biệt rõ ràng về sự khác nhau giữa phương thức TTDA và các phương thức cấp tín dụng trung dài hạn truyền thống cho các DAĐT thông qua việc quảng bá sản phẩm tín dụng trên các trang tin điện tử của chính các TCTD. Qua đó giúp cho các TCTD ở Việt Nam quảng bá sản phẩm tín dụng ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế hơn;

- Cơ quan quản lý là NHNNVN cũng chưa có sự phân biệt về phương thức TTDA và các phương thức cấp tín dụng trung dài hạn truyền thống cho các DAĐT trong “Quy chế cho vay của các TCTD đối với khách hàng” và “Quy chế cấp tín dụng hợp vốn của các TCTD đối với khách hàng”. Qua đó, giúp cho NHNNVN có cơ sở để sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết cho việc vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam trong thời gian tới;

- Cho thấy được việc vận dụng và mở rộng phương thức TTDA sẽ góp phần tạo ra được những nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia như: khai thác tài nguyên, tạo ra tư bản, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đổi mới tư duy và thể chế kinh tế, v.v;

- Phân tích được khả năng vận dụng phương thức TTDA của từng loại hình TCTD ở Việt Nam;

- Cho thấy được thực trạng vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam trong thời gian qua;


- Phân tích được khả năng vận dụng phương thức TTDA của từng loại hình TCTD ở Việt Nam;

- Các giải pháp được trình bày một cách đồng bộ và bám sát với thực trạng về năng lực thẩm định và thực hiện TTDA tại các TCTD ở Việt Nam;

- Các kiến nghị là cần thiết và khả thi và phù hợp với thực trạng hệ thống pháp luật có liên quan của Việt Nam.

8. Những hạn chế của công trình nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận án cũng gặp phải những khó khăn nhất định, đó là việc cơ quan quản lý là NHNNVN cho đến nay vẫn chưa công bố số liệu thống kê chính thức về tình hình thực hiện các khoản TTDA tại Việt Nam. Bên cạnh đó, do các TCTD của Việt Nam chưa phân biệt được sự khác nhau giữa phương thức TTDA với các phương thức cấp tín dụng trung dài hạn truyền thống cho các DAĐT nên họ cũng chưa có được số liệu thống kê chính thức về tình hình thực hiện các khoản TTDA do TCTD thực hiện. Chính vì những khó khăn này đã dẫn đến việc tác giả không có đủ cơ sở dữ liệu để thực hiện các phương pháp nghiên cứu định lượng. Đây là một hạn chế của kết quả nghiên cứu trong luận án của tác giả. Tuy nhiên, hạn chế này đã được khắc phục nhờ vào những số liệu thống kê của chính tác giả từ nhiều nguồn khác nhau để cho thấy được phần nào thực trạng hoạt động của chúng. Có thể khẳng định rằng, hạn chế này là hoàn toàn xuất phát từ nguyên nhân khách quan của nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập với các nền kinh tế trên thế giới và không vì thế mà làm giảm đi tính thực tiễn cũng như những giá trị mà luận án đã đóng góp được.

9. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, kết cấu luận án được cấu trúc thành 3 chương theo lối kết cấu truyền thống như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về sự cần thiết của việc vận dụng và mở rộng phương thức TTDA đối với tiến trình phát triển kinh tế của các quốc gia;

Chương 2: Thực trạng vận dụng và mở rộng phương thức TTDA tại các TCTD ở Việt Nam;

Chương 3: Giải pháp vận dụng và mở rộng phương thức TTDA, góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam.


CHƯƠNG 1


SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC VẬN DỤNG VÀ MỞ RỘNG PHƯƠNG THỨC TÀI TRỢ DỰ ÁN ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA


1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC CẤP TÍN DỤNG TRUYỀN THỐNG CHO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1.1.1. Cơ sở lý luận về dự án đầu tư

1.1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư

Một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.

1.1.1.2. Phân loại dự án đầu tư

Căn cứ vào tính chất của dự án: Dự án độc lập - Dự án loại trừ - Dự án bổ sung;

Căn cứ vào hình thức đầu tư: DAĐT mới - ĐAĐT mở rộng - DAĐT chiều sâu;

Căn cứ vào hợp đồng dự án có yếu tố chuyển giao giữa cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước với nhà đầu tư: Dự án BOT - Dự án BTO - Dự án BT.

1.1.1.3. Các phương diện phân tích của một dự án đầu tư

Hình 1.1: Khung phân tích DAĐT


Phân tích

thị trường

Phân tích

kỹ thuật

Phân tích

nhân lực & quản lý

Phân tích tài chính

Phân tích

kinh tế & xã hội


Nguồn: Phân tích hoạt động doanh nghiệp


1.1.2. Các phương thức cấp tín dụng truyền thống cho các dự án đầu tư

1.1.2.1. Cho vay theo dự án đầu tư

Cho vay theo DAĐT là phương thức cấp tín dụng thường được các TCTD sử dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp để đầu tư xây dựng nhà xưởng và CSHT, mua sắm và lắp đặt dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, v.v.

1.1.2.2. Cho vay hợp vốn


Cho vay hợp vốn là một trong những phương thức cấp tín dụng trung dài hạn cho các DAĐT của các TCTD. Theo đó, một nhóm các TCTD cùng hợp vốn với nhau để cho một khách hàng vay. Các TCTD nói ở đây có thể là các NHTM, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm, các định chế tài chính đa quốc gia, v.v.

1.1.2.3. Cho thuê tài chính

CTTC được xem là một trong những phương thức cấp tín dụng trung dài hạn cho các DAĐT do các công ty CTTC thực hiện. Theo đó, theo yêu cầu của bên thuê, bên cho thuê tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên thuê sử dụng. Trong thời hạn thuê, bên thuê thực hiện các khoản thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê, chịu trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê, bên đi thuê hoặc được chuyển quyền sở hữu tài sản, hoặc được quyền mua tài sản, hoặc được quyền thuê tiếp hay trả lại tài sản cho bên cho thuê tùy theo thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê. Hợp đồng cho thuê là hợp đồng không được hủy ngang.

1.2. PHƯƠNG THỨC TÀI TRỢ DỰ ÁN CHO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ


1.2.1. Khái niệm về tài trợ dự án

TTDA là việc các TCTD tài trợ cho một đơn vị kinh tế độc lập về mặt pháp lý đối với những người khởi xướng. Do đó, khoản tài trợ thường là truy đòi giới hạn hoặc miễn truy đòi đối với những người khởi xướng. Để đưa ra quyết định tài trợ, TCTD chỉ căn cứ vào dòng tiền và triển vọng thành công của dự án và chấp nhận tài sản thế chấp là tài sản hình thành từ vốn vay trong tương lai.

1.2.2. Phân biệt sự khác nhau giữa phương thức tài trợ truyền thống và phương thức tài trợ dự án


Hình 1.2: Sự khác nhau giữa phương thức TTDA và tài trợ truyền thống


Người cho vay

Người cho vay

Trách nhiệm nợ

Vốn vay

Chủ đầu tư

Cổ đông

Cổ đông

Vốn vay & Vốn cổ

Trách nhiệm nợ

Vốn cổ

Vốn vay

DAĐT

DNDA


Tài trợ truyền thống

Tài trợ dự án


Nguồn: Nguyễn Thu Hiền

1.2.3. Các đặc điểm của phương thức tài trợ dự án

- TTDA được sử dụng để tài trợ vốn cho những dự án lớn, có khả năng đứng độc lập về mặt kinh tế và pháp lý thông qua hình thức thành lập một công ty riêng biệt được gọi là DNDA;

- Các ngân hàng, định chế tài chính phi ngân hàng cho DNDA vay tiền thường với tỷ lệ nợ cao. Tỷ lệ tài trợ cho các DAĐT theo phương thức TTDA thường đạt từ 75 – 80% nhu cầu vốn đầu tư của dự án. Đôi khi tỷ lệ này có thể đạt từ 90 – 100% tổng nhu cầu vốn đầu tư của dự án;

- DNDA có thể tham gia các hợp đồng bảo hiểm khác nhau để bảo hiểm các rủi ro của dự án;

- Các TCTD sẽ không căn cứ vào uy tín của những người khởi xướng hay của DNDA mà chỉ chú trọng vào việc thực hiện dự án để đưa ra quyết định tài trợ;

- Cần có các chuyên gia đánh giá về phương diện kỹ thuật và tài chính của dự án một cách tỉ mỉ trước khi ký kết khoản vay và theo dõi thường xuyên triển vọng của dự án sau khi khoản vay đã được ký kết;

- Chứng từ vay và bảo đảm phức tạp do tính phức tạp của các cấu trúc tài trợ và vấn đề rủi ro đối với những người cho vay theo phương thức TTDA cao hơn so với phương thức tài trợ truyền thống. Lãi và phí chính vì thế cũng cao hơn các khoản tài trợ truyền thống.

1.2.4. Các loại tài trợ dự án

1.2.4.1. Tài trợ miễn truy đòi

Tài trợ miễn truy đòi có nghĩa là không có truy đòi đến các tài sản của những người khởi xướng dự án.


1.2.4.2. Tài trợ truy đòi giới hạn

Tài trợ truy đòi giới hạn có nghĩa là có một số rủi ro nào đó sẽ được người cho vay gánh chịu.

1.2.5. Lý do của tài trợ dự án

1.2.5.1. Chia sẻ rủi ro

Nếu DAĐT bị thất bại và những người cho vay truy đòi toàn bộ đối với người khởi xướng, thì việc gánh chịu trách nhiệm hoàn trả nợ toàn bộ cho những người cho vay có thể làm phá sản người khởi xướng dự án.

1.2.5.2. Hạch toán kế toán

Sử dụng TTDA thì có thể có những tác động thuận lợi hơn đối với bảng cân đối kế toán của người khởi xướng, do việc người khởi xướng không phải là người vay, do vậy khoản vay sẽ không được thể hiện trên bảng cân đối của người khởi xướng mà được ghi vào cân đối kế toán của DNDA.

1.2.5.3. Những hạn chế vay nợ

Khi một người khởi xướng gặp phải những hạn chế vay nợ theo điều lệ hoạt động của người khởi xướng hoặc các điều kiện vay nợ ràng buộc trong các hợp đồng vay hiện tại thì người khởi xướng có thể thỏa thuận sử dụng cấu trúc TTDA, bởi vì các cấu trúc tài trợ này không được xem là nợ vay của người khởi xướng. Bằng cách thành lập các DNDA để vay nợ sẽ cho phép người khởi xướng có thể gia tăng được nợ.

1.2.5.4. Lợi ích về thuế

Là các lợi ích thu được do các DNDA được miễn giảm thuế theo quy định của hệ thống pháp luật về thuế và đầu tư. Chẳng hạn như các quy định về miễn giảm thuế do việc tái sử dụng vốn hoặc miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới được thành lập, ưu đãi đầu tư theo các quy định của luật khuyến khích đầu tư có thể khuyến khích người khởi xướng sử dụng cấu trúc TTDA thay cho các cấu trúc tài trợ truyền thống.

1.2.6. Các chủ thể tham gia vào phương thức tài trợ dự án

1.2.6.1. Những người khởi xướng

Những người khởi xướng là những người cam kết hỗ trợ thực hiện dự

án.

1.2.6.2. Doanh nghiệp dự án

DNDA là công ty sẽ vận hành dự án sau khi dự án đi vào hoạt động.

1.2.6.3. Người vay

Trong phương thức TTDA, thường người vay là DNDA. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người vay không phải là DNDA mà là công ty được thành lập nhằm mục đích đặc biệt để vay tiền TCTD thực hiện dự án và nhận lại tiền từ dự án để hoàn trả cho các TCTD. Công ty có mục đích đặc biệt trong trường này còn được gọi là TBV. Sau đây là một cấu trúc tài trợ tiêu biểu cho TBV:

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/11/2022