Nội Dung Sử Dụng Nguồn Nhân Lực Được Đào Tạo



thông.

Thứ nhất: Đối với các cấp bậc học phổ thông đặc biệt là trung học phổ


Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội, giáo dục ý thức công dân, định hướng giá trị: chân - thiện - mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn cho việc lựa chọn bước đường tiếp theo cho tương lai, theo học nghề gì, chọn trường chuyên nghiệp hoặc trường cao đẳng, đại học nào cho phù hợp với khả năng của mình và yêu cầu của xã hội.

Thứ hai: Đối với các trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề - cao đẳng - đại học đào tạo như đã nêu ở phần trên là quá trình kết hợp giữa đào tạo ban đầu và tự đào tạo, giữa truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các lĩnh vực hoạt động KT - XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong hệ thống các trường nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau:

- Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý tưởng Cộng sản, ý thức bảo vệ tổ quốc, rèn luyện sức khoẻ thông qua hệ thống các môn học chung.

- Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt chú ý tới các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du lịch. Gắn liền với việc truyền thụ tri thức là việc hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học để người học có thể tiếp trục tự hoàn thiện về nhân cách và trình độ chuyên môn sau thời gian được đào tạo trong trường; biết phát hiện và lý giải được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho nghề nghiệp. Thực tiễn cho thấy kết quả của đào tạo không chỉ tính bằng lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.


năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học; khả năng thích nghi và khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động.

Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây - 4

- Cung cấp các kiến thức công cụ như ngoại ngữ và tin học nhằm tạo điều kiện cho sinh viên trong việc giao lưu, học hỏi, tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại trên thế giới.

- Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau thông qua các giờ thực hành, các đợt xâm nhập thực tế theo chuyên ngành đào tạo, các cuộc gặp gỡ, trao đổi và học hỏi các doanh nhân thành đạt trong các lĩnh vực và nghề nghiệp hoặc các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực chuyên ngành nghiệp vụ được đào tạo. Kết hợp tốt việc giảng dạy lý thuyết với thực hành để sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo mình được đảm nhận một cách có hiệu quả. Để chuẩn bị NNL chất lượng cao cho sự phát triển nền kinh tế tri thức cần giúp đỡ cho sinh viên cập nhật các kỹ năng mới, nhất là sử dụng công nghệ thông tin viễn thông, kỹ năng giải quyết, xử lý các vấn đề sự cố phát sinh, kỹ năng làm việc theo nhóm...

- Ngoài các nhóm nội dung cơ bản nói trên cần chú ý tới việc rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đạo đức lương tâm nghề nghiệp, văn hoá ứng xử trong hợp tác lao động ở mỗi cương vị công tác mà người lao động được đảm nhiệm trong hệ thống phân công lao động xã hội.

Đối với các cơ sở đào tạo lao động xuất khẩu cần có nội dung bổ trợ tìm hiểu về pháp luật, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán từng vùng của nước nhập khẩu lao động và cách giao tiếp ứng xử sao cho phù hợp với nước họ và tập quán quan hệ quốc tế.


Thứ ba: Đối với bậc đào tạo nhân tài.

Trên cơ sở tuyển chọn các sinh viên xuất sắc ở các trường vào cuối năm thứ nhất, hoặc tuyển lựa các học sinh có điểm cao trong kỳ thi vào đại học sau đó tuyển chọn tiếp để đào tạo thành lớp sinh viên tài năng các ngành nghề quan trọng cho đất nước. Nội dung đào tạo lớp sinh viên tài năng này phải mang tính hiện đại, nhất là phải hướng vào việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu, học tập và làm việc độc lập cũng như hợp tác, đồng thời hướng vào việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong việc dự đoán, nhận định năng lực và khai thác được tài năng của đối tác. Tuy nhiên, cũng không thể bỏ qua việc đào tạo ra yếu tố gốc là đạo đức. Như Bác Hồ của chúng ta từng dạy "Có tài mà không có đức thì vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó " [30, tr.252-253].

Tóm lại, nội dung đào tạo NNL cần được xác định theo xu hướng phát triển của thời đại để có thể đào tạo cho xã hội một đội ngũ lao động mới có đủ đức, tài, năng động sáng tạo, thích nghi với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

1.2.1.2. Nội dung sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo

Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với những đòi hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới trong việc khai thác và phát huy tiềm năng NNL. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia con người được coi là nhân tố trung tâm của quá trình sản xuất nên đã diễn ra quá trình tìm kiếm những cách thức và giải pháp tối ưu sử dụng NNL. Tuy nhiên do đặc điểm tình hình KT - XH khác nhau nên việc xác định nội dung, giải pháp và bước đi có sự khác nhau ở mỗi quốc gia. Song xu hướng phổ biến và cơ bản đều coi con người là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quá trình khai thác sử dụng NNL ở nước ta bao


gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm, phân bố sử dụng hợp lý lực lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc tạo ra những kích thích và động lực của lao động để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả. Để khơi dậy và phát huy tiềm năng người nói chung việc sử dụng NNL phải được tiến hành đồng bộ từ Giáo dục đào tạo, phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và được hưởng thụ xứng đáng giá trị lao động mà họ sáng tạo ra. Hay có thể nói vấn đề sử dụng NNL được đặt trong quan hệ với vấn đề đào tạo NNL. Trong đó Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL, là cơ sở, điều kiện để sử dụng NNL có hiệu quả. Đến lượt việc sử dụng có hiệu quả NNL sẽ tạo điều kiện mở rộng, cải thiện môi trường đào tạo tốt hơn để nâng cao chất lượng NNL. Trong các hình thái KT - XH khác nhau, NNL của một quốc gia được biểu hiện ra là nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội. Trong nguồn lao động đó có những người đã qua đào tạo và cả những người chưa được đào tạo; những người lao động sản xuất kinh doanh, những nhà quản lý, khoa học, những người làm công tác dịch vụ, văn phòng... Từ khía cạnh này có thể hiểu nội dung sử dụng NNL, trước hết bao hàm việc phân bố hợp lý, khai thác sử dụng hết lực lượng lao động, giải quyết việc làm cho mọi người có nhu cầu làm việc và sử dụng các biện pháp kích thích hiệu quả đến nguồn lao động; kết hợp khai thác sử dụng với đào tạo bồi dưỡng NNL để nâng cao hiệu quả sử dụng, nâng cao chất lượng việc làm và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng. Trên cơ sở đó làm tăng thu nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao động. Sự thành công của CNH, HĐH ở nước ta nói chung và ở Hà Tây nói riêng không chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng NNL mà còn phụ thuộc với mức độ lớn vào việc sử dụng NNL theo hướng toàn dụng lao động, hợp lý và hiệu quả; đặc biệt là khai thác hiệu quả NNL đã qua đào tạo.


Việc thu hút toàn bộ lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế không phải chỉ dừng lại ở chỗ thông qua phân công lao động tạo cho mỗi người đều có việc làm mà cần phải chú ý phân bố sử dụng theo cơ cấu hợp lý và phù hợp về trình độ trong các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH; trong các lĩnh vực như hành chính sự nghiệp - sản xuất kinh doanh (theo hướng lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp ngày càng giảm xuống) và trong các vùng (thành thị - nông thôn, các vùng kinh tế trọng điểm) thuộc lãnh thổ quốc gia, đồng thời cũng cần phải tính đến tỷ lệ lao động trong tổng lực lượng lao động sẽ xuất khẩu ra nước ngoài. Nếu không có sự phân bố lao động một cách hợp lý thì nguồn lực lao động dù có đông đảo cũng không thể trở thành động lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng của nền kinh tế.

Ngoài những vấn đề trên việc toàn dụng lao động còn phải tính tới khả năng khai thác thời gian lao động trong tổng số thời gian mà người lao động có thể làm việc. Cho nên trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhà nước cũng cần phải tạo các cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển các ngành nghề để có thể tạo nhiều việc làm trong đó có nhiều việc làm có chất lượng để bảo đảm cho người lao động có việc làm thường xuyên và hạn chế tình trạng bỏ việc một cách tuỳ tiện.

Trên cơ sở sự phân công hợp lý toàn bộ lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế, nhà nước và các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động cần tính đến việc tìm ra các biện pháp quản lý chặt chẽ lao động, các biện pháp kích thích tới người lao động để nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của mình.

Thực tế lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người đã ngày càng cho thấy rõ rằng: con người cùng với tri thức của họ là nguồn lực không bao giờ cạn. Bởi vậy song song với quá trình khai thác sử dụng lao động, các cơ sở tuyển dụng lao động cần kết hợp một cách linh hoạt, mềm dẻo các hình


thức và nguyên tắc phân phối tạo điều kiện cho người lao động được tham gia các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề và nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo. Nói cách khác là vừa biết khai thác vừa biết tái tạo, bồi đắp NNL để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai.

Tóm lại, việc sử dụng NNL trong điều kiện hiện nay phải tính tới tất cả các vấn đề: toàn dụng lao động, phân bố hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và bồi đắp NNL.

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

1.2.2.1. Nguồn và chất lượng đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực

Ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông là nền tảng cơ sở tạo ra nguyên liệu cho giáo dục đào tạo NNL, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp tạo ra NNL. Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo NNL cả về số lượng và chất lượng đầu vào, do đó ảnh hưởng đến qui mô và chất lượng của đào tạo NNL. Thực tế cho thấy nếu số lượng học sinh phổ thông có nguyện vọng dự thi vào các trường nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học quá ít hoặc quá nhiều với trình độ học lực thấp sẽ không chỉ gây khó khăn cho việc tuyển lựa sinh viên vào các trường mà còn ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề và phương pháp học tập tự nghiên cứu để nắm bắt được tri thức mới, nâng cao trình độ tay nghề.

1.2.2.2. Trình độ cơ sở vật chất và tài chính ở các cơ sở đào tạo

Cơ sở đào tạo NNL đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất nhất định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo NNL thực hiện được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất. Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật


cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo. Thực tế đã chứng minh rằng để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên việc tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen với các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một dần theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa, nếu không có nguồn tài chính để bổ sung các trang thiết bị hiện đại cho sinh viên thực hành sẽ không đáp ứng được sự phát triển trình độ phù hợp với xu hướng biến đổi của khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể đáp ứng yêu cầu phát triển NNL theo hướng kinh tế tri thức.

1.2.2.3. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý

Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh. Chất lượng của đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi sự bất cập về số lượng, chất lượng, trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương về đạo đức, nhân cách, tài năng của người thầy có tác động rất lớn đối với việc hình thành nhân cách, tài năng của họ. Muốn có trò giỏi (NNL có chất lượng) ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực tế người thầy không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được. Trình độ chuyên môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề cho sinh viên không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đồng thời phải chú trọng việc nâng cao trình độ giáo viên trong các trường, tạo điều kiện cho


họ được cập nhật với các tri thức khoa học hiện đại và phát triển đội ngũ giáo viên tài năng. Trong các nhà trường để hoạt động đào tạo đạt được kết quả, ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với năng lực, trình độ, trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính. Thực tế cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất. Vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban giám hiệu đến các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản lý con người đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ cho giảng dạy, hoạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở vật chất... Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc hay suy yếu đều ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác, do đó ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí đào tạo NNL. Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Cho nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công việc và ý thức trách nhiệm cao.

1.2.2.4. Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang thiết bị kỹ thuật - công nghệ trong sản xuất kinh doanh

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo NNL có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện qui hoạch phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động. Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 23/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí