hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương... đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về đào tạo NNL. Chiến lược phát triển KT - XH thời kỳ 2001 - 2010 của nước ta yêu cầu chú trọng đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tác, xây dựng một số ngành công nghệ kỹ thuật cao, nâng cao từng bước trình độ công nghệ trong mọi ngành sản xuất, phát triển công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn theo hướng văn minh hiện đại, nâng chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá để tăng sức cạnh tranh, phát triển đa dạng thương mại dịch vụ, phát triển du lịch sớm trở thành mũi nhọn...
Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000 xuống 50% vào năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào tạo theo ngành và cấp trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế nêu trên. Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra những thách thức đối với NNL và do đó trực tiếp tác động tới đào tạo NNL cả về qui mô, cơ cấu và trình độ cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp lý NNL trong quá trình CNH, HĐH.
* Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có NNL phù hợp để trước hết có thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao hiệu quả đầu tư sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới. Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản nhiều nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ
lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chủng loại cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới. Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo NNL tốt hơn; đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó phải đào tạo NNL để phát triển. Việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mà còn phải có sự kết hợp với việc sử dụng NNL. Việc phân bố, sử dụng NNL cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy "Xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc" [30, tr.274-275].
1.2.2.5. Thị trường lao động và cơ chế chính sách tuyển dụng
* Việc hình thành và quản lý tốt thị trường sức lao động hiện nay có vai trò quan trọng đối với đào tạo và sử dụng NNL. Nó cung cấp thông tin cho đào tạo NNL để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về qui mô, cơ cấu, chất lượng cho CNH, HĐH đồng thời thông qua thị trường sức lao động, các cơ quan đơn vị kinh tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của mình. Thông qua thị trường sức lao động, người lao động tìm được công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và sở trường của mình. Do đó cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng NNL; xác lập được quan hệ cung - cầu lao động, giảm dần sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục được tình trạng lãng phí trong đào tạo và sử dụng NNL.
* Cơ chế chính sách tuyển dụng nguồn nhân lực: đây là yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác, sử dụng NNL. Trong cơ chế cũ nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo NNL, tuyển dụng, sử dụng cho đến khi thôi việc. Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm nảy sinh những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn khớp, dư thừa lao động trình độ đại học, thiếu công nhân, triệt tiêu động lực thúc đẩy người lao động làm việc có hiệu quả, không khuyến khích được họ nâng cao trình độ tay nghề, chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà không chú trọng đến hiệu quả lao động. Quan điểm sử dụng hết nguồn lao động xã hội đã dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở lên cồng kềnh, kém hiệu lực. Việc tuyển dụng theo cơ chế phân công việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mỗi người đều được nhận một chỗ làm việc như nói trên đã không kích thích được ý thức động cơ của người được đào tạo và dễ rơi vào tình trạng không đúng người đúng việc, hiệu quả lao động thấp.
Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường, người lao động nào đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm. Cơ chế này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc phù hợp với trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao, đồng thời thông qua việc được nhận thù lao lao động tương xứng với trình độ năng lực, người lao động có ý thức cao hơn trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp và do đó lại làm cho kết quả đào tạo NNL được nâng cao hơn nữa về chất. Trong thời gian qua, với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế, chính sách tuyển dụng NNL ở nước ta cũng được đổi mới căn bản. Chế độ tuyển dụng và sử dụng lao động theo biên chế suốt đời trước đây được chuyển sang hình thức hợp đồng lao động có thời hạn. Hình thức tuyển dụng "có ra có vào" này đã kích thích tính năng động sáng tạo của người lao động, khích thích họ không ngừng vươn lên nâng cao trình độ để
giữ được việc làm. Cơ chế này còn có tác dụng giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh được quyền chủ động trong tuyển dụng, sử dụng và sa thải lao động nên có điều kiện để tuyển lựa, sắp xếp lao động theo yêu cầu của công việc và phù hợp với năng lực riêng của mỗi người do đó một mặt làm tăng hiệu quả sử dụng lao động còn mặt khác góp phần điều chỉnh quan hệ giữa cầu với cung (đào tạo NNL).
Rõ ràng việc đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng lao động là một nhân tố có tác động tích cực tới đào tạo NNL và nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
1.2.3. Vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, đội ngũ công nhân kỹ thuật có đủ đức tài, có khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được đặt ra trong quá trình CNH, HĐH. Để khai thác tiềm năng to lớn của con người Việt Nam, cần tiếp tục triển khai mạnh trong thực tiễn quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo, mà khâu then chốt là đào tạo NNL chất lượng cao và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Có thể nói đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo có vai trò to lớn về nhiều mặt:
Thứ nhất: Ở nước ta, đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề góp phần quan trọng tạo ra lực lượng lao động và chuyên gia giỏi về công nghệ, kỹ thuật và quản lý đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước nói chung và ở Hà Tây nói riêng. Với những kiến thức cơ bản, kỹ năng nghề nghiệp và phương pháp tư duy sáng tạo họ không chỉ là những người tổ chức thực hiện các hoạt động trong quá trình sản xuất mà trong quá trình đó họ còn là những người lãnh đạo và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến đồng thời sáng tạo ra những phát minh khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật mới đáp ứng nhu cầu tăng khả năng sức cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế. Mặt
khác việc thu hút sử dụng hợp lý NNL với các biện pháp kích thích người lao động làm cho họ không chỉ lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao mà còn say mê nghiên cứu tìm tòi sáng tạo để tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ mới giúp giảm nhẹ sức lao động của mình trong quá trình sản xuất. Như vậy với quá trình đào tạo NNL, quá trình sử dụng hợp lý NNL làm cho quá trình đổi mới trang thiết bị kỹ thuật công nghệ không ngừng diễn ra và lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển.
Thứ hai: Đào tạo NNL có chất lượng và sử dụng nó có hiệu quả sẽ tác động đến phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động từ đó đẩy mạnh chất lượng và nhịp độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch đó được thực hiện nhờ có sự đóng góp to lớn của đào tạo và sử dụng NNL. Nhờ đẩy mạnh hoạt động Giáo dục, đào tạo NNL và khai thác sử dụng NNL trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng, mặc dù tốc độ còn chậm. Về cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch từ nông nghiệp - công nghiệp dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Tỷ trọng của công nghiệp trong GDP ngày càng tăng lên và tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.1. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP nước ta thời kỳ 1995 - 2003.
Đơn vị tính: %
Ngành | Năm | |||||
1995 | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | ||
1 | Công nghiệp | 27,8 | 36,73 | 38,13 | 38,55 | 40,5 |
2 | Nông nghiệp | 27,2 | 24,3 | 23,24 | 22,99 | 21,7 |
3 | Dịch vụ | 41 | 39,1 | 38,63 | 38,46 | 37,81 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây - 2
- Sự Tác Động Của Đào Tạo Và Sử Dụng Nguồn Nhân Lực Đối Với Quá Trình Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá
- Nội Dung Sử Dụng Nguồn Nhân Lực Được Đào Tạo
- Tổng Quan Thực Trạng Đào Tạo Và Sử Dụng Nguồn Nhân Lực Trong Quá Trình Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Ở Hà Tây Thời Gian Qua
- Về Tình Hình Thu Hút Và Phân Bố Sử Dụng Lao Động
- Đánh Giá Chung Và Những Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Đào Tạo Và Sử Dụng Nguồn Nhân Lực
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Nguồn: Niên giám thống kê các năm [7].
Quá trình chuyển dịch cơ cấu theo ngành; đòi hỏi đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH giải quyết việc làm cho người lao động. Đánh giá quá trình này, hiện nay có số liệu của Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Lao động - Thương binh xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Kế hoạch - Đầu tư thời kỳ 1991 - 2003 tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra theo hướng tích cực phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế (theo bảng sau):
Bảng 1.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở nước ta thời kỳ 1991 - 2003.
Đơn vị tính: %
Ngành | Năm | ||||
1991 | 1995 | 2000 | 2003 | ||
1 | Công nghiệp | 13,6 | 13,2 | 13,7 | 18,45 |
2 | Nông nghiệp | 72,6 | 70,1 | 67,2 | 59,04 |
3 | Dịch vụ | 13,8 | 16,7 | 19,1 | 21,5 |
Nguồn: Niên giám thống kê các năm [7].
Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong cơ cấu lao động cũng có sự đổi mới. Năm 1996 lao động qua đào tạo mới có 13% đến năm 2000 đã đạt 20% và đến năm 2003 khoảng 21,5%. Về cơ cấu trình độ lao động: từ năm 1996 đến 2000 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lực lượng lao động tăng từ 12,31% lên 15,53%. Cơ cấu trình trình độ cũng có sự thay đổi mặc dù còn chậm: năm 1996 công nhân kỹ thuật 4,38% Cao đẳng Đại học 2,3% Sơ cấp 1,77% Trung cấp 3,84. Đến năm 2000 tỷ lệ trong cơ cấu tương ứng là: 5,4 - 1,41 - 4,83 và 3,89.
Thứ ba: Đào tạo NNL và sử dụng hiệu quả NNL đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu như trong những năm 50 - 60 của thế
kỷ XX tăng trưởng kinh tế chủ yếu do CNH, sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là khâu chủ yếu cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì vài thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây chỉ có một phần nhỏ thuộc về tăng trưởng kinh tế được giải thích bởi khía cạnh đầu vào là vốn; phần quan trọng gắn với chất lượng của lao động. Cho nên việc đầu tư cho con người sẽ là yếu tố góp phần rất quan trọng nâng cao năng suất lao động. Và được coi là là đầu tư cho phát triển. Garry Bec Ken (người Mỹ) nói đại ý rằng: Không có sự đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào NNL, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục. Thực tế lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một quốc gia nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông. Việt Nam tuy là nước đang phát triển nhưng những kết quả về KT - XH trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Theo đánh giá của tổ chức ngân hàng thế giới Việt Nam đã duy trì và đạt được tỷ lệ tăng trưởng khá cao và ổn định. Từ năm 1996 đến năm 2000 tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm 7,5%. Đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần so với năm 1990. Từ năm 2001 đến nay tỷ lệ tăng trưởng vẫn duy trì ở mức độ bình quân hơn 7%.
Bảng 1.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời kỳ 1996 - 2003.
Đơn vị tính: %
1996 - 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | |
Tỷ lệ | 7,5% | 6,9% | 7,04% | 7,24% |
Nguồn: Niên giám thống kê [7].
Nhờ sự tăng trưởng của nền kinh tế, bộ mặt xã hội không ngừng được cải thiện, chỉ số HDI được nâng lên đáng kể. Năm 1994 Việt Nam xếp thứ 116/173 nước với chỉ số 0,514, năm 1995 chỉ số tăng lên 0,649, năm 2000 tăng lên 0,671 xếp thứ 108 và đến năm 2002 Việt Nam vẫn xếp thứ 108 với
chỉ số 0,69. Những kết quả đó tuy chưa cao nhưng đã phản ánh rất rõ ràng chiến lược phát triển NNL của Đảng ta là đúng đắn.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể thấy rằng: trong quá trình phát triển KT - XH nói chung và CNH, HĐH nói riêng, đào tạo và sử dụng NNL có vai trò rất quan trọng, song điều đó không có nghĩa một quốc gia có lực lượng dân số đông thì sẽ có lợi thế và gặt hái được nhiều thắng lợi và ngược lại một quốc gia có lực lượng dân số ít thì không giành được thắng lợi mà vấn đề ở đây còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó đã đào tạo NNL như thế nào và đã khai thác sử dụng nó ra sao. Bởi vậy để phát triển KT - XH ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nói chung và ở Hà Tây nói riêng cần phải coi trọng vấn đề đào tạo và sử dụng NNL phù hợp với điều kiện đặc thù của mình.
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY
2.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây
2.1.1. Tổng quan đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ với diện tích 2.193 km2, nằm trọn trong nội địa, không có đường biên giới quốc gia và đường biển. Hà Tây giáp với 5 tỉnh và thành phố. Hà Nội ở phía Bắc, Hưng Yên ở phía Đông, Hà Nam ở phía Nam, Hoà Bình ở phía Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ ở phía Tây bắc. Hà Tây nằm kề bên khu tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hà Tây vừa là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội với các đường giao thông chiến lược: quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 32, đường cao tốc Láng - Hoà Lạc, đường thuỷ trên sông Hồng, vừa là lá phổi xanh của Hà Nội.
Địa hình Hà Tây phân thành hai vùng khá rõ rệt. Vùng đồng bằng ở phía Đông chiếm 70% diện tích toàn tỉnh mang đặc trưng vùng đồng bằng