Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây - 2


Thực chất CNH, HĐH ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật dựa trên công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến hiện đại, yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tuy nhiên, đây không chỉ là quá trình tăng thêm một cách giản đơn về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc thường xuyên đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững hiệu quả cao theo định hướng XHCN trong tất cả các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân.

1.1.1.2. Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành khi nghiên cứu về vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển KT - XH. Nguồn nhân lực được đề cập trên nhiều góc độ khác nhau:

- Theo lý thuyết phát triển, NNL được hiểu theo nghĩa rộng là nguồn lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận cấu thành của các nguồn lực, là lực lượng lao động của một quốc gia có thể huy động để tham gia vào quá trình phát triển KT - XH, đó là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia lao động.

- Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn (vốn người "Tư bản người"), một thành tố cơ bản của quá trình sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra lý luận về vốn người còn xem xét con người từ quan điểm về nhu cầu, về các nguồn cho sự phát triển của nó. Đầu tư cho con người được phân tích tương tự đầu tư vào các nguồn lực vật chất có tính đến tổng hiệu quả của các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các đầu tư đó. Cách tiếp cận này được áp dụng một cách phổ biến ở các nước hiện nay. Theo cách tiếp cận này Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây


con người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như: vốn bằng tiền, công nghệ, tài nguyên. Việc đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Do đó NNL là nguồn vốn đặc biệt, nhất là trong giai đoạn phát triển của kinh tế tri thức gắn với đặc trưng của lao động trí tuệ.

- Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thể hiện trong Chương trình cấp nhà nước KX - 07, NNL được hiểu là "số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc" [24, tr.28].

Như vậy, nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

- Về số lượng: nguồn nhân lực phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể có được của cá nhân và qui định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay, Luật Lao động qui định độ tuổi lao động đối với nam từ 15 - 60, đối với nữ từ 15 - 55. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT - XH. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH. Nếu thừa sẽ dẫn đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu thì không có đủ lực lượng nhân lực cho quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế đất nước.

- Về chất lượng, nguồn nhân lực được biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh thần thái độ, động cơ, ý thức lao động, văn hoá lao động công nghiệp, phẩm chất tốt đẹp của người công dân đó là yêu nước, yêu CNXH. Trong ba mặt: thể lực, trí lực, tinh thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là phương thức để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Ý thức tinh thần đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động chuyển hoá của trí lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL

Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây - 2


bởi có nó con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội. Mác và Ăng ghen đã nói "Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ" [32, tr.438].

Từ những phân tích trên cho thấy: nguồn nhân lực là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực. Với cách hiểu này, NNL bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã hội theo Luật lao động quy định.

1.1.1.3. Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

* Đào tạo nguồn nhân lực:

Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy đầu tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển NNL được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng nhất. Khái niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo và nhiều khi bao gồm cả khái niệm đào tạo. Theo từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: "Đào tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài người. Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật - công nghệ và văn hoá của đất nước. Có nhiều dạng đào tạo; đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên môn, đào tạo cơ bản, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa, đào tạo tập trung, đào


tạo chính quy và không chính quy". Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy trong nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao.

Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp ứng yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau:

- Nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

- Nhân lực trong lĩnh vực hành chính công.

- Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp.

- Nhân lực trong lĩnh vực lao động thuộc các ngành nghề kinh tế, kỹ

thuật.

Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đi chăng nữa cũng phải

đảm bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (tức các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng tạo để có khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành nghề theo sự phân công lao động xã hội.

Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đào tạo NNL là quá trình tác động, dạy và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành người có hiểu biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định, có khả năng đảm nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ của quá trình phát triển KT - XH.


Đào tạo NNL tạo lên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù hợp với yêu cầu phát triển KT - XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu sau:

- Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

- Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng và việc làm phải gắn và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị trường lao động.

Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng. Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề trường Đại học, Cao đẳng, các Trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường, lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế, hay tại các lớp dạy nghề do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào tạo NNL có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới của nền sản xuất - xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề

- lành nghề - trình độ cao; đào tạo trình độ trình độ sơ cấp - trung học chuyên nghiệp - cao đẳng - đại học và sau Đại học.

* Sử dụng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ thống các yếu tố tổ hợp thành: sức lực, trí tuệ, khối lượng cùng đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ phong cách làm việc, tính năng động xã hội và sức sáng tạo. Đó là sức lao động, như Mác nói khả năng mà con người có thể thông qua lao động để


biến thành hiện thực. Từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH và sự phát triển KT - XH. Tuy nhiên, khi nói NNL tức là nói sức lao động, do vậy nó còn ở trạng thái khả năng, ở trạng thái tĩnh, nó phải được chuyển sang trạng thái động tức là phải được đem phân bố sử dụng nó một cách có hiệu quả, phải làm thế nào để NNL dưới dạng khả năng đó thành hiện thực, thành vốn nhân lực.

Sử dụng NNL tức là tiêu dùng sức lao động của con người trong quá trình lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các nhu cầu sản xuất và nhu cầu con người trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất đó là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển KT - XH. Bởi vậy sử dụng NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát triển KT - XH.

Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó phụ thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất, những cải tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào tạo (đặc biệt là đào tạo nghề).

Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có thể được xem xét trên các khía cạnh sau:

Một là, nguồn nhân lực được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp, vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao động sản xuất. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL.


Hai là, con người khi tham gia vào các quá trình phát triển KT - XH không những chỉ sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển. Ngày nay thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức thì vai trò của lao động trí tuệ của con người thể hiện ngày càng rõ nét. Dự báo của Mác và Ăng ghen: Khoa học do lao động trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất và trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Do đó có thể khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của NNL qua đào tạo.

Ba là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và đang làm thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và việc làm và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình phát triển việc làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển việc sử dụng lao động theo chiều rộng sang khai thác sử dụng theo chiều sâu. Việt Nam là một nước chậm phát triển, thực hiện CNH sau, NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và trình độ còn thấp, vì vậy trong quá trình sử dụng NNL chúng ta vẫn cần thiết phải sử dụng lao động theo hướng kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu.

Nói tóm lại, để khai thác, phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT - XH trong từng thời kỳ của quốc gia.

1.1.2. Mối quan hệ tác động giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và NNL có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mối quan hệ này là mối quan hệ về cung cầu lao động. Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao


giờ cũng giữ vị trí quyết định. Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại, có khả năng biến các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH. Mối quan hệ này thể hiện:

1.1.2.1. Sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến đào tạo và sử dụng nguồn nguồn nhân lực

Thứ nhất: Đối với đào tạo nguồn nhân lực

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời đòi hỏi rất nhiều ở Giáo dục đào tạo NNL. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định chỉ có thể thực hiện bằng con đường "phát triển rút ngắn" mới thu hẹp được khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các nước khác trên thế giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải có NNL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt phải có NNL trình độ cao.

- Trong suốt tiến trình CNH, HĐH một mặt bao giờ cũng kéo theo và đặt ra yêu cầu mới cho đào tạo NNL. Với tư cách là người sử dụng NNL qua đào tạo, nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có trình độ học vấn cao, tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL. Ăng ghen nhấn mạnh "Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên một mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù trợ thì không đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa” [32, tr. 474].

- Mặt khác, CNH, HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết để cho định hướng đào tạo và phát triển NNL. Điều đó thể hiện ở chỗ:

+ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để cải biến nếp nghĩ, nếp làm, vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 23/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí