Một Số Kiến Nghị Đối Với Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội


nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các DN huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ.

Các DN DM sử dụng nhiều lao động nữ, nên gánh nặng về chi phí tiền lương và các phúc lợi, hỗ trợ, trợ cấp cho lao động nữ rất lớn. Do vậy, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ thuế, hỗ trợ DN sử dụng nhiều lao động nữ, hỗ trợ xuất khẩu.

Nhóm kiến nghị về các chính sách ĐT&PT NNL nói chung và ĐT&PT CNKT ngành Dệt May nói riêng

Thứ nhất, Chính phủ nên có chiến lược phát triển các khu vực, địa bàn, tỉnh thành phù hợp với sản xuất của ngành Dệt May. Với chủ trương di dời các DN DM khỏi khu vực nội thành Hà Nội sang các tỉnh lân cận, việc đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề Dệt May tại các địa phương để tạo nguồn lao động cho các DN DM là hết sức cần thiết.

Thứ hai, nên có chính sách khuyến khích các DN có đủ điều kiện cơ sở vật chất đào tạo công nhân lành nghề ngay tại DN (chính sách hỗ trợ kinh phí cho đào tạo: thành lập Quỹ đào tạo tại các doanh nghiệp,…). Để có thể hỗ trợ hoạt động ĐT&PT CNKT trong DN nói chung và trong các DN DM nói riêng, Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ và các chương trình xây dựng và phát triển mô hình các trường dạy nghề trong DN như trường Cao đẳng nghề Long Biên, thuộc Tổng công ty May 10; khuyến khích, hỗ trợ đầu tư cho các trường dạy nghề của DN về cơ sở vật chất, nhà xưởng, trường lớp, máy móc thiết bị phục vụ đào tạo. Đầu tư cho cơ sở vật chất bao giờ cũng là gánh nặng rất lớn mà không phải DN nào cũng đủ năng lực tài chính để đáp ứng. Khi có cơ sở vật chất ban đầu, DN sẽ chủ động hơn trong hoạt động ĐT&PT CNKT của mình.

Thứ ba, nên quy định những ràng buộc về nghĩa vụ hợp tác, phối hợp và hỗ trợ từ phía DN đối với hoạt động giáo dục, đào tạo và phát triển của các trường, các cơ sở đào tạo chính quy để nâng cao mức đáp ứng công việc và thực tiễn của học sinh/sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mặt khác, Chính phủ nên đưa ra những chính sách đầu tư có chiều sâu vào hệ thống các trường dạy nghề về máy móc thiết bị, nhà xưởng, hệ thống giáo trình giáo án, nâng cao chất lượng đội ngũ GVDN để từ đó, nâng cao chất lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp để đáp ứng yêu cầu của DN.

Thứ tư, cần có những chính sách nhằm cân đối lại cơ cấu đào tạo. Theo tính toán của nhiều nhà kinh tế và nhiều nước trên thế giới [11], cơ cấu đào tạo các loại lao động theo tỷ lệ: cao đẳng, đại học trở lên/ trung cấp chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật là 1/4/10. Đây là mục tiêu cần hướng tới của việc hoàn thiện hệ thống giáo dục và đào tạo của nước ta.


Thứ năm, chính sách hỗ trợ vốn cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực: Chính phủ hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các Viện nghiên cứu, các Trường đào tạo trong ngành Dệt May Việt Nam để tăng cường cơ sở vật chất và thực hiện các hoạt động nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May theo nguyên tắc phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 255 trang tài liệu này.

4.4.2. Một số kiến nghị đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội

Thứ nhất, thành phố cần xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển dạy nghề một cách đồng bộ, hiện đại hóa, tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo chuyên ngành dệt may, đổi mới hệ thống dạy nghề đáp ứng yêu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế nhằm đảm bảo sự cân đối ngay trong hệ thống giáo dục – đào tạo, giữa hệ thống giáo dục - đào tạo với phát triển kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Thành phố nên đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động đào tạo nghề nhằm thu hút đa dạng nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, có chính sách để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các cơ sở đào tạo nghề với phương tiện kỹ thuật hiện đại, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dạy nghề. Thành phố nên có chính sách khuyến khích liên kết chặt chẽ giữa các DN DM, và các cơ sở đào tạo nghề trong ĐT&PT CNKT; khuyến khích các DN thuộc mọi thành phần kinh tế hàng năm dành kinh phí thích đáng và thời gian ĐT&PT CNKT; được tính vào giá trị đầu tư và hạch toán vào chi phí sản xuất của DN.

Đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật trong các doanh nghiệp dệt may Hà Nội - 20

Thứ hai, thành phố cần phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống giao dịch chính thức trên thị trường lao động: nâng cao chất lượng hoạt động của sàn giao dịch việc làm; thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động thống nhất từ thành phố đến quận/huyện, phường/xã. Các thông tin chính xác từ thị trường lao động sẽ giúp các DN DM xây dựng các kế hoạch tuyển dụng và đào tạo-phát triển CNKT của mình hiệu quả hơn. Hàng năm, thành phố cần có các báo cáo chính thức tình hình sử dụng lao động, thù lao, dự báo nhu cầu lao động theo ngành nghề. UBND thành phố HN nên phối hợp với Thành đoàn HN và các DN tổ chức Hội chợ việc làm hàng quý để tạo cơ hội tiếp cận giữa DN và NLĐ. Thứ ba, thành phố cần có hệ thống chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thông, phối hợp với các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở trên địa bàn triển khai công tác hướng nghiệp để giúp cho thanh niên, học sinh định hướng đúng đắn việc chọn nghề và hiểu rõ được ý nghĩa của việc gia nhập đội ngũ công nhân; tạo điều kiện phát triển đội ngũ công nhân trẻ có trình độ cao, chuyển một bộ phận

lớn nông dân thành công nhân.


Thứ tư, thành phố nên tổ chức hội thi “Tay nghề giỏi cấp thành phố” hàng năm, trong đó có CNKT nghề dệt may để tạo không khí thi đua và khuyến khích CNKT học hỏi, nâng cao tay nghề, tôn vinh những CNKT có tay nghề xuất sắc.

Thứ năm, Liên đoàn Lao động thành phố HN cần xúc tiến kiện toàn tổ chức Công đoàn ngành Dệt may Hà Nội và khuyến khích các tổ chức công đoàn cơ sở trong các DN DM HN gia nhập Công đoàn ngành Dệt may. Công đoàn ngành Dệt May HN cần có những hoạt động thiết thực và tích cực đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần cho NLĐ, nhằm nâng cao sức hấp dẫn và thu hút lao động cho các DN trong ngành.

Thứ sáu thành phố Hà Nội cần có các chính sách để phát triển HN thành trung tâm thời trang của cả nước, từ đó, tạo cơ hội phát triển cho ngành dệt may-thời trang. Các hoạt động hỗ trợ, xúc tiến thương mại như: tổ chức các hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ hàng dệt may và công nghệ dệt may, tháng khuyến mãi Hà Nội hàng năm,… cần được duy trì và thực hiện hiệu quả.

4.4.3. Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước

Các kiến nghị về chính sách hỗ trợ hoạt động ĐT&PT CNKT trong DN

Các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục dạy nghề- Bộ LĐTB&XH cần phối hợp triển khai những chương trình hoàn thiện hệ thống đào tạo nghề như sau:

- Phân tích thị trường lao động, từ đó, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động nhằm phục vụ cho việc xác định các yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp cho CNKT các nghề.

- Xây dựng và ban hành bộ chuẩn năng lực nghề, ban hành hệ thống Tiêu chuẩn kỹ năng nghề cho CNKT các nghề (trong đó có CNKT nghề Dệt May)

- Xây dựng và ban hành bộ chuẩn đào tạo CNKT các nghề

- Biên soạn và áp dụng hệ thống tài liệu hướng dẫn giảng dạy.

- Xây dựng và ban hành bộ chuẩn đánh giá đào tạo, hướng dẫn áp dụng trong DN

- Biên soạn và áp dụng bộ tài liệu hướng dẫn tổ chức giảng dạy và tổ chức cơ sở vật chất.

- Có các chương trình tập huấn, hỗ trợ các DN tự xây dựng Tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xây dựng các chương trình đào tạo dài hạn và ngắn hạn cho CNKT, tự biên soạn các tài liệu phục vụ cho giảng dạy và học tập trong DN, áp dụng các bộ chuẩn đánh giá.

4.4.4. Một số kiến nghị với Tập đoàn Dệt May Việt Nam

Tập đoàn Dệt May Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước triển khai Chương trình phát triển nguồn nhân lực cho


ngành. Luận án đề xuất một số kiến nghị đối với Tập đoàn Dệt May nhằm hỗ trợ cho hoạt động ĐT&PT CNKT trong các DN DM HN như sau:

Duy trì và củng cố hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành Dệt May Thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành dệt may, Vinatex chủ

động duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công nhân nhằm cung cấp đủ nguồn nhân lực cho ngành. Vinatex cũng cần chú ý đầu tư cơ sở vật chất, MMTB cho các trường dạy nghề của DN. Bên cạnh đó,

Vinatex hỗ trợ các DN triển khai các chương trình ĐT&PT kiến thức, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ, về khả năng sư phạm của đội ngũ CBQL, GVDN, đặc biệt cho đội ngũ GVDN chuyên trách và GVDN kiêm nhiệm của các DN.

Kết hợp các hình thức đào tạo

- Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khoá đào tạo CBQL, đào tạo CNKT có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài.

- Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo.

Tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí ĐT&PT CNKT cho các DN DM HN

- Khuyến khích các DN DM lân cận hợp tác đào tạo CNKT trên cơ sở kinh phí của Tập đoàn, kinh phí của DN, nguồn vốn hỗ trợ từ Tổng cục dạy nghề, nguồn vốn hỗ trợ từ Nhà nước, và một phần đóng góp của NLĐ.

- Hỗ trợ kinh phí đào tạo và giúp các DN xin hỗ trợ kinh phí đào tạo từ Nhà nước, Tổng cục dạy nghề. Hỗ trợ DN trong các hoạt động đào tạo và phát triển NNL nói chung, đặc biệt cần có những hỗ trợ, chính sách và các chương trình hành động cụ thể và thiết thực để hỗ trợ về cơ sở vật chất, chi phí đào tạo cho các DN trong ĐT&PT CNKT nói riêng

4.4.5. Một số kiến nghị đối với các cơ sở đào tạo

Một số kiến nghị với các cơ sở dạy nghề như sau: Một là, các cơ sở đào tạo, các trường chính quy cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ và gắn kết với các DN DM để nâng cao khả năng đáp ứng và hội nhập công việc nhanh chóng của học sinh/sinh viên sau khi tốt nghiệp. Hai là, triển khai các chương trình ĐT&PT năng lực kỹ thuật, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn và lý thuyết, các chương trình ĐT&PT trình độ sư phạm của đội ngũ GVDN chuyên trách và GVDN kiêm nhiệm của các DN DM HN. Ba là, triển khai các hoạt động tư vấn, hỗ trợ DN trong xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng và triển khai các chương trình ĐT&PT CNKT trong các DN DM HN. Các hoạt động tư vấn này vừa giúp giải quyết các vấn đề thực tiễn của DN, vừa giúp nâng cao trình độ lý thuyết và thực tiễn cho đội ngũ GVDN của các trường.


Hiện nay, hầu hết các trường dạy nghề chính quy đều thiếu giáo viên và chất lượng cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Để giải quyết tình trạng này có thể áp dụng một số giải pháp sau: thứ nhất, tìm hiểu, ban hành những chính sách hấp dẫn để thu hút giáo viên giỏi. Tuyển dụng giáo viên mới có trình độ tốt nghiệp đại học chính quy và sau đại học hoặc đang học cao học đúng chuyên ngành trường đào tạo, đảm bảo tỷ lệ giáo viên cơ hữu. Ký hợp đồng với giáo viên thỉnh giảng của các trường Cao đẳng, Đại học, Viện, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao của các DN. Thứ hai, đào tạo chuẩn hóa những giáo viên trung cấp nghề, cao đẳng nghề trong trường. Đối với những GVDN có khả năng đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhưng kiến thức cho giảng dạy còn hạn chế thì tổ chức cho họ học tập nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm hoặc các lĩnh vực có liên quan. Tạo điều kiện cho GVDN được bồi dưỡng thường xuyên nhằm cập nhật kiến thức, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, phương pháp giảng dạy tiên tiến. Đồng thời tổ chức nghe giảng dự giờ để cho các giáo viên trong trường học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy. Tạo điều kiện cho giáo viên học nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học. Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng GVDN. Thứ ba, nâng cao đời sống cho GVDN bằng những biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần. Ban hành những quy định mới về tiền lương, chế độ khen thưởng, kỷ luật rõ ràng nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để GVDN có thể nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao trình độ chuyên môn. Duy trì và đổi mới nội dung, hình thức và thực hiện phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, thi giáo viên dạy giỏi cấp thành phố.


Tóm tắt chương 4

Ở chương 4, dựa trên định hướng phát triển ngành Dệt May Việt Nam và những dự báo nhu cầu nguồn nhân lực và nhu cầu CNKT, luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động ĐT&PT CNKT cho các DN DM HN và một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan.

Các giải pháp hoàn thiện hoạt động ĐT&PT CNKT tập trung vào một số nội dung: hoàn thiện việc xác định nhu cầu ĐT&PT, cải tiến các phương pháp đào tạo theo quan điểm lấy người học làm trung tâm, nâng cao năng lực sư phạm và chuyên môn nghiệp vụ cho GVDN của DN, cải thiện các chính sách khuyến khích ĐT&PT, sử dụng bản thân hoạt động ĐT&PT CNKT như là công cụ kích thích tinh thần với NLĐ và đề xuất các chỉ tiêu đánh giá kết quả ĐT&PT CNKT cho các DN DM HN. Một hệ thống quản lý nguồn nhân lực hiệu quả cùng các công cụ kích thích vật chất, đãi ngộ thỏa đáng và hấp dẫn sẽ là điều kiện cần và đủ giúp các giải pháp về ĐT&PT CNKT khả thi. Do vậy, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động


QLNNL trong các DN DM HN, đặc biệt chú trọng đến các biện pháp thu hút, đãi ngộ, giữ chân NLĐ.

Luận án cũng đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ, với UBND thành phố Hà Nội, với các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ LĐTB&XH, Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục dạy nghề, và một số bên liên quan như Tập đoàn Dệt May Việt Nam và các trường dạy nghề nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho hoạt động ĐT&PT CNKT trong các DN DM HN.


KẾT LUẬN

ĐT&PT CNKT là hoạt động rất quan trọng đối với các DN DM HN nhằm đảm bảo một lực lượng lao động có kiến thức, kỹ năng, thái độ lao động phù hợp và có khả năng đáp ứng những yêu cầu ngày càng khắt khe của SXKD hiện tại và trong tương lai. Nghiên cứu đề tài “Đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật trong các doanh nghiệp Dệt May Hà Nội”, luận án đã có những đóng góp về lý luận như sau: thứ nhất, luận án đã bổ sung và làm rõ khái niệm “công nhân kỹ thuật” và phát triển cơ sở lý luận về “đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật trong doanh nghiệp”. Thứ hai, kế thừa và phát triển từ các mô hình đánh giá kết quả đào tạo trong các nghiên cứu trước đây, luận án đã đề xuất đánh giá kết quả ĐT&PT CNKT của DN thông qua đánh giá mức độ đáp ứng các yêu cầu của công việc của công nhân sau khi được đào tạo về kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc và khả năng phát triển nghề nghiệp trong tương lai. Tiêu chí khả năng phát triển nghề nghiệp của người học sau đào tạo là đóng góp mới của luận án. Thứ ba, luận án đề xuất khung lý thuyết nghiên cứu nghiên cứu về ĐT&PT CNKT trong DN, trong đó, xem xét tác động của ba nhóm yếu tố: Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài, các yếu tố thuộc về thiết kế-triển khai hoạt động ĐT&PT CNKT và các yếu tố thuộc về cá nhân người CNKT đến kết quả ĐT&PT CNKT của DN. Trong đó, nhóm yếu tố thiết kế-triển khai hoạt động ĐT&PT CNKT do DN chủ động kiểm soát và có thể hoàn thiện để đem lại kết quả đào tạo tốt, nên luận án tập trung nghiên cứu sâu hơn. Nhóm yếu tố thiết kế-triển khai bao gồm: (i) xác định nhu cầu đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật, (ii) lựa chọn phương pháp đào tạo phù hợp, (iii) chất lượng giáo viên dạy nghề, (iv) chính sách và sự quan tâm của DN, và (v) tổ chức và quản lý các chương trình đào tạo.

Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài tác động đến hoạt động SXKD của DN, dẫn đến những đòi hỏi khắt khe về tay nghề, kiến thức và khả năng phát triển của người CNKT, do đó, gián tiếp gây sức ép lên hoạt động ĐT&PT CNKT của DN. Xem xét nhóm các yếu tố thuộc về cá nhân người CNKT cho thấy kết quả ĐT&PT CNKT, đặc biệt là khả năng phát triển nghề nghiệp cũng thay đổi theo độ tuổi, trình độ lành nghề và thâm niên nghề nghiệp. Tuy nhiên, do vị thế cạnh tranh trên thị trường lao động kém hấp dẫn so với các loại DN khác, các DN DM HN không có nhiều cơ hội lựa chọn khi tuyển dụng và thu hút lao động. Vì vậy, nhóm các yếu tố thuộc về cá nhân người CNKT cũng không nằm trong khả năng kiểm soát của DN. Đi sâu nghiên cứu nhóm các yếu tố thuộc về thiết kế - triển khai hoạt động ĐT&PT CNKT, kết quả cho thấy: (i) kiến thức chuyên môn và năng lực sư phạm của các giáo viên dạy nghề còn yếu, (ii) các chính sách


đào tạo và đãi ngộ còn ít tác dụng khuyến khích về vật chất và tinh thần với người lao động, làm giảm động lực học tập của người học, (iii) các phương pháp đào tạo đang được áp dụng trong các doanh nghiệp chủ yếu là các phương pháp đào tạo trong công việc, kém tính bài bản và hệ thống, (iv) DN không muốn đầu tư vào ĐT&PT CNKT do e ngại công nhân thành thạo tay nghề bỏ việc và không thu hồi được chi phí đào tạo. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng sau khi được ĐT&PT trong DN, năng lực thực hành-thực hiện công việc của CNKT còn hạn chế, đặc biệt về kiến thức và khả năng phát triển nghề nghiệp.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận án đề xuất các DN DM HN cần nhìn nhận ĐT&PT CNKT vừa là giải pháp phát triển bền vững vừa là công cụ kích thích tinh thần với NLĐ và đổi mới quan điểm ĐT&PT CNKT theo phương pháp tiếp cận theo năng lực. Các giải pháp hoàn thiện ĐT&PT CNKT trong các DN DM HN chủ yếu bao gồm: (i) hoàn thiện việc xác định nhu cầu ĐT&PT; (ii) cải tiến các phương pháp đào tạo theo quan điểm lấy người học làm trung tâm; (iii) nâng cao năng lực sư phạm và kiến thức chuyên môn cho GVDN; (iv) cải thiện các chính sách khuyến khích ĐT&PT; (v) hoàn thiện hệ thống đánh giá kết quả ĐT&PT CNKT của DN;

(vi) sử dụng bản thân hoạt động phát triển nghề nghiệp cho CNKT như là công cụ kích thích tinh thần với NLĐ; (vii) tăng cường thu hút, tạo động lực, đãi ngộ, giữ chân lao động giỏi. Luận án cũng kiến nghị Nhà nước và các cơ quan quản lý hữu quan cần đưa ra các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các DN có thể tự chủ động ĐT&PT CNKT nhằm phục vụ nhu cầu SXKD.

Tuy nhiên, luận án này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung vào ĐT&PT CNKT các nghề sợi-dệt-may, còn chưa đề cập đến ĐT&PT các loại CNKT khác như công nhân phụ, công nhân phục vụ quá trình sản xuất về công nghệ, về kỹ thuật cơ điện, về vệ sinh lao động hay các loại hình hoạt động khác trong các DN DM HN. Hơn nữa, phạm vi nghiên cứu của luận án cũng chỉ được giới hạn tập trung vào các DN DM HN mà việc nghiên cứu một cách toàn diện lĩnh vực ĐT&PT CNKT trong các DN của toàn ngành Dệt may Việt Nam ở quy mô rộng lớn hơn có thể là một việc làm rất cần thiết và đóng góp thiết thực vào sự phát triển năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp quan trọng này không chỉ của Hà Nội mà của cả nước trong các năm tới. Đây có thể là những hướng nghiên cứu sẽ được quan tâm triển khai thực hiện sau luận án này.

Xem tất cả 255 trang.

Ngày đăng: 23/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí