Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật Ngành Điện


quốc gia (phổ cập giáo dục tiểu học ở Việt Nam), mục tiêu toàn ngành (xoá bỏ các xã trắng về y tế).

Mục tiêu quản lý đào tạo trong doanh nghiệp là tổ chức thực hiện chu trình quản lý nhằm đạt được chất lượng đội ngũ người lao động theo tiêu chuẩn đề ra, như tiêu chuẩn cán bộ, tiêu chuẩn chức danh chuyên môn nghiệp vụ, tiêu chuẩn cấp bậc CNKT, tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia...

Trạng thái mong muốn đó có thể chưa có hoặc đang có mà ta muốn đạt được, duy trì thông qua tác động quản lý và sự vận động của đối tượng quản lý. Đối tượng của quản lý đào tạo là một trường học hoặc sự nghiệp đào tạo trên một địa bàn nào đó, một doanh nghiệp nào đó.

Như vậy, xét về mặt nội dung của mục tiêu, thì mục tiêu quản lý đào tạo bao gồm những kết quả đào tạo đạt được; trình độ phát triển mọi mặt của nhà trường, tổ chức đào tạo; về đội ngũ sư phạm, giảng viên; về cơ sở vật chất kỹ thuật; về tổ chức và quản lý.

Hệ thống đào tạo hoạt động trong sự đan chen các mối quan hệ phát triển đa dạng và phức tạp. Quản lý đào tạo là quản lý các mục tiêu vừa tường minh, vừa khó xác định trong sự tác động qua lại của các yếu tố chủ đạo sau:

- Mục tiêu đào tạo;

- Chương trình, nội dung đào tạo;

- Lực lượng đào tạo (người học-đối tượng đào tạo);

- Môi trường đào tạo;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 316 trang tài liệu này.

- Hình thức tổ chức đào tạo;

- Điều kiện đào tạo;

Nghiên cứu chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật trong công nghiệp điện lực Việt Nam - 6

- Quy chế đào tạo;

- Bộ máy tổ chức đào tạo;

Hoạt động tương tác của các yếu tố trên làm nảy sinh những tình huống có vấn đề đòi hỏi được giải quyết. Quản lý đào tạo chính là quá trình xử lý các tình huống có vấn đề trong hoạt động đào tạo của toàn hệ thống, đạt chất lượng tổng thể


và bền vững, làm cho đào tạo vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh của nền kinh tế nói chung và sự phát triển doanh nghiệp nói riêng.

Vai trò và ý nghĩa của quản lý đào tạo đối với chất lượng đào tạo

Việc quản lý đào tạo có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng để đạt được mục tiêu chất lượng đào tạo; nó không những kiểm soát được toàn bộ quá trình thực hiện, mà còn xem xét điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế trong công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Từ đó có thể đề ra được các giải pháp đổi mới hợp lý thích nghi để đạt được kết quả tốt hơn trong đào tạo.

Đối với doanh nghiệp, đảm bảo cho chất lượng đào tạo đạt kết quả ngày càng cao, tiết kiệm được chi phí đào tạo. Công tác đào tạo gắn với nhu cầu của thực tế sản xuất, không bị dàn trải, đem đến những lợi ích cụ thể cho doanh nghiệp ở việc tăng năng suất lao động.

Đối với người lao động, người lao động luôn được định hướng đúng về việc bồi huấn nâng cao trình độ đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn của công việc. Nhờ đó, người lao động được trang bị và chủ động trang bị kiến thức chuyên môn sát với nội dung công việc để công việc đạt hiệu quả cao hơn, từ đó người lao động tăng được thu nhập từ việc tăng năng suất lao động.

Đối với kinh tế xã hội, yêu cầu về trình độ ngày càng cao đối với lực lượng lao động dẫn đến việc lao động phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu; sự định hướng đúng, mục tiêu rõ ràng của công tác quản lý đào tạo giúp cho xã hội có mặt bằng bằng tri thức lao động phát triển nhanh, rút ngắn được quá trình phát triển.

1.1.6.2. Quản lý chất lượng đào tạo

Khi nói đến quản lý chất lượng thì ta có thể liên tưởng ngay đến quản lý chất lượng - quản trị chất lượng của sản phẩm hàng hóa. GS.TS. Nguyễn Đình Phan chỉ ra rằng: “hiện đang tồn tại những định nghĩa khác nhau về quản trị chất lượng, nhưng điểm chung nhất trong các định nghĩa đó là: quản trị chất lượng có tính hệ thống, đồng bộ; mục đích của quản trị chất lượng là đảm bảo và nâng cao chất


lượng sản phẩm và dịch vụ trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm (thiết kế, sản xuất, tiêu dùng) nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng”(6)

A.G Robertson, một chuyên gia người Anh cho rằng: “Quản trị chất lượng được xác định như là một hệ thống quản trị nhằm xây dựng chương trình và sự phối hợp các cố gắng của những đơn vị khác nhau để duy trì và tăng cường chất lượng trong các tổ chức thiết kế, sản xuất sao cho đảm bảo nền sản xuất có hiệu quả nhất, đồng thời cho phép thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của người tiêu dùng”.

A.V.Feigenbaum, nhà khoa học Mỹ cho rằng: “Quản trị chất lượng là hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong một tổ chức (một đơn vị kinh tế) chịu trách nhiệm triển khai tham số chất lượng, duy trì mức chất lượng đã đạt được và nâng cao nó để đảm bảo sản xuất và tiêu dùng sản phẩm một cách kinh tế nhất, thỏa mãn nhu cầu của tiêu dùng”.

Chuyên gia nổi tiếng của Nhật Bản trong lĩnh vực quản trị chất lượng đã định nghĩa: “Quản trị chất lượng có nghĩa là nghiên cứu triển khai, thiết kế, sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng, kinh tế nhất, có ích nhất cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng”.

Theo tiêu chuẩn ISO–9000 thì “Quản trị chất lượng là các phương pháp và hoạt động được sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng”.

Như vậy, quản lý chất lượng đào tạo nghề có thể hiểu như là một quá trình quản trị sản xuất (quá trình quản lý dạy và học) mà sản phẩm đầu ra ở đây là Công nhân kỹ thuật có chất lượng, được thể hiện ở hiểu biết về chuyên môn, khả năng đáp ứng công việc, kỹ năng nghề nghiệp tay nghề cao, chuyên sâu.

Quản lý chất lượng đào tạo là quản lý dạy và học.

Tiến bộ không ngừng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang hàng ngày, hàng giờ làm thay đổi mọi mặt đời sống tinh thần và vật chất của con người. Yêu cầu của giáo dục đào tạo là phải đào tạo ra những con người làm chủ KHKT, biết lao động bằng tư duy sáng tạo, có khả năng thích ứng với biến động của cơ chế thị trường,…

6 : Nguyễn Đình Phan “Quản lý chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Thực trạng, vấn đề và giải pháp” , Quản trị kinh doanh những năm đầu thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, tr.21


“Dạy” về bản chất là quá trình tổ chức nhận thức cho người học, giúp cho người học, học tập và nghiên cứu tốt; “Học” về bản chất là quá trình tiếp thu thông tin dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm biến đổi bản thân, tự làm phong phú mình bằng cách tích lũy và xử lý thông tin từ môi trường sống, từ đó hình thành nhân cách của mình. Chất lượng dạy học là thực hiện tốt và đầy đủ các nhiệm vụ dạy học. Chất lượng dạy học có thể khái quát thành công thức 5 H:

- Head: Tri thức;

- Hand: Kỹ năng;

- Heart: Thái độ;

- Happiness: Hạnh phúc;

- Health: Sức khoẻ.

Một quá trình giảng dạy có chất lượng sẽ làm cho nhân cách của từng học viên được phát triển theo mục tiêu được đào tạo, làm cho học viên có niềm tin và hạnh phúc trong quá trình học tập. Chất lượng dạy học không chỉ làm cho người học nắm được tri thức, mà phải giúp họ có phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề đặt ra một cách khoa học. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng giữa dạy học lấy học sinh làm trung tâm với dạy học theo phương pháp truyền thống.

Trong thời đại ngày nay, việc thực hiện đầy đủ các mục tiêu và nhiệm vụ dạy học là điều kiện cần nhưng chưa đủ để gọi là dạy tốt, học tốt. Một điều kiện nữa hết sức quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng là phải thực hiện những nhiệm vụ đó trong thời gian ngắn nhất, với chi phí thấp nhất và đạt hiệu quả cao nhất.

Với quan niệm về chất lượng và hiệu quả dạy học như trên, với đặc điểm của nó, công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ bao gồm việc đảm bảo chất lượng trong việc thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau của một cơ sở đào tạo, như: nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, trợ giảng, chuyên gia và cán bộ quản lý công tác đào tạo; cung cấp tài chính, cải thiện điều kiện phục vụ và dịch vụ, quản lý chất lượng quá trình dạy học. Trong những nhiệm vụ đó, quản lý chất lượng đội ngũ giảng viên (các kỹ sư làm công tác đào tạo) và chất lượng giờ lên lớp của giảng viên có vai trò quyết định.


1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT NGÀNH ĐIỆN

Việc đào tạo CNKT đạt hiệu quả như thế nào phụ thuộc vào sự am hiểu tường tận các điều kiện môi trường mà một doanh nghiệp, tổ chức đang hoạt động. Các yếu tố môi trường có một ảnh hưởng sâu rộng, vì chúng ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động của quá trình đào tạo CNKT. Vì thế, khi thực hiện công tác đào tạo CNKT, cần phải phân tích và xác định một cách chính xác sự ảnh hưởng của các nhân tố môi trường đến các hoạt động của quá trình đào tạo CNKT của doanh nghiệp, tổ chức.

Có nhiều cách phân loại các nhân tố môi trường liên quan đến chất lượng đào tạo CNKT, nhưng về cơ bản, chúng được gộp lại thành hai loại nhóm nhân tố, đó là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên trong tổ chức. Nhóm nhân tố bên ngoài bao gồm môi trường vĩ mô và môi trường ngành; nhóm nhân tố bên trong, gồm các nhân tố liên quan đến hệ thống nội bộ của doanh nghiệp, tổ chức. [39] [64]

1.2.1. Các nhân tố bên ngoài

Các nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng đến công tác đào tạo CNKT của doanh nghiệp, tổ chức bao gồm hai loại môi trường: Môi trường vĩ mô, như các yếu tố kinh tế, dân cư, luật pháp của nhà nước, văn hoá - xã hội, khoa học – kỹ thuật; và môi trường ngành, như các đối thủ cạnh tranh, khách hàng... Ngoài ra, hai nhân tố: hệ thống chính sách của Nhà nước và cách đánh giá, nhìn nhận của xã hội đối với hoạt động đào tạo CNKT, do có ảnh hưởng sâu sắc tới chất lượng đào tạo của đối tượng này, sẽ được tác giả tách ra để nghiên cứu riêng. [39][64]

1.2.1.1 Môi trường vĩ mô

Môi trường vĩ mô bao gồm:

- Các yếu tố về kinh tế, như chu kỳ kinh tế và chu kỳ kinh doanh, tỷ lệ lạm phát, chính sách tài chính quốc gia... có ảnh hưởng theo các cấp độ khác nhau đối với một doanh nghiệp, tổ chức. Do vậy, doanh nghiệp, tổ chức phải xác định một cách chính xác sự ảnh hưởng của yếu tố này đến công tác đào tạo của đơn vị mình. Trong giai đoạn kinh tế suy thoái, hoặc kinh tế bất ổn có chiều hướng đi xuống,


doanh nghiệp, tổ chức, một mặt vẫn cần phải duy trì lực lượng lao động có tay nghề, một mặt phải giảm chi phí lao động, như giảm giờ làm, cho nhân viên nghỉ việc tạm thời hoặc giảm phúc lợi ; đào tạo nguồn nhân lực theo hướng thu gọn, tinh giản; đội ngũ lao động được đào tạo chuyên sâu hơn, khả năng đáp ứng công việc đa dạng hơn nhằm tiết kiệm lao động...

Ngược lại, khi kinh tế đi lên và có chiều hướng phát triển ổn định, doanh nghiệp, tổ chức lại có nhu cầu phát triển lao động mới để mở rộng sản xuất, tăng cường đào tạo huấn luyện nhân viên. Việc mở rộng sản xuất này đòi hỏi doanh nghiệp, tổ chức phải tuyển thêm lao động có chất lượng, đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức, như có thể tăng lương, tăng phúc lợi thu hút nhân tài, cải thiện điều kiện làm việc để tạo ra mức hấp dẫn của công việc đối với người lao động.

Tại Việt Nam, trong những năm gần đây việc thu hút lao động trong các doanh nghiệp tăng lên ở tất cả các loại hình doanh nghiệp, thông qua các ưu đãi khi làm việc như tăng lương, tăng các khoản phúc lợi, cải thiện điều kiện làm việc... Đây là kết quả của chính sách mở cửa, và có sự hình thành nhiều doanh nghiệp mới hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau, đó cũng chính là dấu hiệu của một nền kinh tế đang có chiều hướng đi lên. Chính vì sợ mất nhân tài nên ngay cả trong các doanh nghiệp nhà nước cũng phải thực hiện nhiều chế độ ưu đãi đối với người lao động. Rõ ràng, khi kinh tế phát triển hay suy thoái đều có ảnh hưởng rất lớn đến công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp, tổ chức; từ đó đã ảnh hướng gián tiếp đến chất lượng đào tạo của xã hội.

- Các yếu tố về văn hóa - xã hội, trong đó, yếu tố dân số hiện được coi là một trong những yếu tố xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực. Nhất là khi, Việt Nam là một nước đang tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp. Mặc dầu trong những năm vừa qua, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhưng do còn nhiều khó khăn, đặc biệt là do tỷ lệ phát triển dân số cao, cộng với lực lượng lao động vốn có trình độ thấp đang gây ra những áp lực lớn cho xã hội trong việc tạo công ăn việc làm và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế trong tương lai. Cụ


thể là, do nguồn lực hạn chế, nên khi dân số tăng cao sẽ ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư cho học tập nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực của toàn xã hội. Do vậy lực lượng lao động có trình độ thấp có nguy cơ ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong xã hội.

Ngoài ra, văn hoá, tập quán của một quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung và chất lượng đào tạo CNKT nói riêng. Tình trạng trọng nam khinh nữ trong từng gia đình, hoặc doanh nghiệp, tổ chức đã hạn chế sự tham gia, đóng góp của nữ giới vào các hoạt động xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng, từ đó làm tổn hại tới sự phát triển của toàn xã hội. Thực tế đã cho thấy, nhiều điển hình, đặc biệt là các CNKT của nhiều ngành, lĩnh vực ở Việt Nam lại là các lao động nữ.

Sự thay đổi về lối sống trong xã hội cũng ảnh hưởng đến cấu trúc của các tổ chức. Đã có sự chuyển dịch một lượng lớn lao động từ khu vực sản xuất hàng hóa sang khu vực dịch vụ, như các ngành giao thông, truyền thông, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng; các dịch vụ kinh doanh, như quảng cáo, tư vấn về pháp luật,... Như vậy, về phương diện nào đó nó cũng sẽ tác động đến cơ cấu lao động, số lượng lao động, trình độ lao động... trong oanh nghiệp, tổ chức. Khi có sự thay đổi đó, các doanh nghiệp, tổ chức phải biên chế lại lao động, bố trí lại lao động trong đơn vị mình cho phù hợp.

- Hệ thống pháp luật, cũng là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng ngày càng to lớn đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức nói chung và công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp, tổ chức nói riêng. Doanh nghiệp, tổ chức phải tuân theo các quy định có liên quan đến nguồn nhân lực, như các quy định về thuê mướn lao động, an toàn lao động, bảo hiểm, điều kiện làm việc...

Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, Luật Lao động đã được ban hành và đưa vào sử dụng sẽ là điều kiện ràng buộc các tổ chức trong quá trình sử dụng lao động. Ngoài ra, các luật khác cũng tùy theo mức độ, có ảnh hưởng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực, như Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán, Luật Giáo dục đào tạo...


Sự ảnh hưởng của luật pháp đến đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở đây chính là việc vận dụng các quy định của các ngành luật vào các hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức như lập kế hoạch về nguồn nhân lực, tuyển dụng lao động, điều kiện làm việc... trong doanh nghiệp, tổ chức. Khi một số luật mới ra đời hoặc có một số luật cũ được điều chỉnh, bổ sung cũng sẽ tác động đến nhận thức và vận dụng pháp luật vào quá trình hoạt động của tổ chức, nhất là đối với việc sử dụng lao động.

- Yếu tố kỹ thuật – công nghệ: Chúng ta đang sống và lao động trong thời đại phát triển công nghiệp và bùng nổ thông tin. Yếu tố này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực trong doanh nghiệp, tổ chức. Đây là thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp, tổ chức. Để đủ sức cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam hiện nay một mặt phải cải tiến kỹ thuật, công nghệ; đồng thời phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ của người lao động, đào tạo, tuyển dụng nhân viên mới theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ mới hiện đại.

Khi kỹ thuật công nghệ thay đổi, có một số công việc hoặc một số kỹ năng không cần thiết nữa. Do đó, doanh nghiệp, tổ chức cần phải đào tạo lại lực lượng lao động hiện tại của mình và phải lập kế hoạch đào tạo mới lực lượng lao động phù hợp với công việc. Sự thay đổi của kỹ thuật công nghệ cũng đồng nghĩa với việc là chỉ cần ít người hơn mà vẫn sản xuất ra số lượng sản phẩm tương tự, nhưng có chất lượng cao hơn. Điều này có nghĩa là nhà quản lý phải sắp xếp lại lực lượng lao động dư thừa của tổ chức và phải tổ chức đào tạo mới, đào tạo lại nguồn nhân lực.

1.2.1.2. Môi trường ngành

Đào tạo CNKT, bản thân nó là hoạt động có định hướng, nhằm vào một hoặc vài ngành kinh tế - kỹ thuật cụ thể. Chính vì vậy nó chịu sự tác động của môi trường ngành.

Trong phân tích về chiến lược nói chung, môi trường ngành được xem xét bởi 5 lực lượng cạnh tranh (mô hình kim cương của M. Porter) bao gồm: Thay đổi công

Xem tất cả 316 trang.

Ngày đăng: 03/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí