Chỉ Số Môi Trường Kinh Doanh (Bci) Theo Quý, 2013-2018


lên nhanh chóng, từ 2% năm 1992 đã lên tới khoảng 20% năm 2017. Vốn FDI thực hiện đạt gần 170 tỷ USD, chiếm 25% tổng vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội. Bên cạnh đó, khu vực FDI thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng xuất khẩu của cả nước tăng mạnh, từ 32,9% năm 2009 lên hơn 70% kể từ năm 2016 đến nay. Khu vực FDI là nhân tố chính giúp Việt Nam không bị thâm hụt cán cân thương mại khi đóng góp giá trị xuất siêu tới 32,8 tỷ USD nếu tính cả dầu thô và 30,5 tỷ USD không kể dầu thô trong năm 2018, chẳng những bù đắp được nhập siêu nghiêm trọng (25,6 tỷ USD) của khu vực kinh tế trong nước mà còn tạo ra xuất siêu 7,2 tỷ USD cho toàn nền kinh tế. FDI cũng giúp làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm là nguyên liệu thô, sơ chế và tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo có giá trị gia tăng cao hơn. Khu vực FDI đóng góp khoảng 18% vào nguồn thu ngân sách. Giá trị nộp ngân sách của khu vực FDI tăng từ 1,8 tỷ USD trong giai đoạn 1994-2000 lên 14,2 tỷ USD trong giai đoạn 2001-2010. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp vào ngân sách hơn 8 tỷ USD. Ngoài ra, FDI góp phần tạo ra hơn 3,5 triệu việc làm trực tiếp và gần 5 triệu việc làm gián tiếp.

Với việc Việt Nam tham gia EVFTA, dòng vốn FDI tăng lên tiếp tục tạo ra nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Gia tăng FDI theo chiều dọc từ các nước EU cũng như gia tăng FDI từ các đối tác ngoài EU nhằm tận dụng các ưu đãi mà Việt Nam được hưởng từ EU đều thúc đẩy xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu từ Việt Nam sang EU, giúp cải thiện hơn nữa cán cân thanh toán. Sự hiện diện ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài cũng tạo ra thêm nhiều việc làm và nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

5.1.1.2. Nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Như đã phân tích ở chương 4, về lâu dài hiệp định EVFTA thúc đẩy cải thiện chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài thông qua tạo thuận lợi tiếp cận, lựa chọn nguồn vốn đầu tư chất lượng cao với cam kết lâu dài, gắn với công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến với những tác động lan tỏa đáng kể để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác động này được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:


Thứ nhất, thúc đẩy đầu tư có giá trị gia tăng trong nước cao. Hiện nay, các dự án FDI đầu tư vào Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung vào các công đoạn đơn giản, giá trị gia tăng thấp trong chuỗi sản xuất như gia công, lắp ráp. Các khâu sản xuất, sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao, chuyên sâu (như nghiên cứu, thiết kế, phân phối...) đều phải nhập khẩu hoặc thực hiện ở nước ngoài chứ rất ít được thực hiện tại Việt Nam. Điều này khiến cho Việt Nam dù đang là một công xưởng lớn của thế giới nhưng thực tế vẫn chỉ là nền kinh tế gia công. Việc xóa bỏ hầu hết các dòng thuế quan mở ra cơ hội rất lớn về tiếp cận thị trường EU, do đó thúc đẩy xu hướng thu hút đầu tư cả trong nước và nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường EU. Để tranh thủ tối đa các ưu đãi về thuế của hiệp định EVFTA, hàng xuất khẩu phải bảo đảm các quy định về xuất xứ hàng hóa của EVFTA. Các quy định về quy tắc xuất xứ cùng với thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ chặt chẽ, minh bạch của EVFTA sẽ thúc đẩy sử dụng nguyên phụ liệu trong nước hoặc EU, do đó đẩy mạnh hơn phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam và tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Việc thực hiện nghiêm túc các cam kết về quy định xuất xứ của EVFTA và các FTA thế hệ mới sẽ giảm dần và tiến tới loại bỏ dần các dòng đầu tư tập trung vào gia công, lắp ráp giản đơn.

Thứ hai, thúc đẩy đầu tư gắn với công nghệ và chuyển giao công nghệ cao. Công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ là những lĩnh vực Việt Nam mong muốn thông qua thu hút FDI để đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tuy nhiên, số dự án FDI trong lĩnh vực này còn rất ít. Bộ Khoa học và Công nghệ đến nay mới cấp giấy chứng nhận cho khoảng hơn 50 doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Đây là con số rất nhỏ bé trong tổng số dự án đầu tư vào Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Trên 80% công nghệ sử dụng trong các dự án FDI đều chỉ ở mức trung bình so với thế giới; chỉ có khoảng 5-6% sử dụng công nghệ cao; số còn lại thậm chí sử dụng công nghệ lạc hậu. Chi phí cho hoạt động R&D của các doanh nghiệp FDI còn rất ít, chỉ chiếm dưới 0,1% doanh thu (Trần Văn Tùng, 2017). Chuyển giao công nghệ tuy có diễn ra


nhưng số lượng và chất lượng chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh đó, các cam kết liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong EVFTA là yếu tố tác động tích cực đến niềm tin của các nhà đầu tư, giúp khuyến khích các dòng vốn FDI gắn với công nghệ. Một khi quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ nghiêm túc và đầy đủ ở Việt Nam như ở EU sẽ thúc đẩy không chỉ các nhà đầu tư EU mà cả các nhà đầu tư từ các nước khác sẵn sàng và yên tâm chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trên cơ sở cùng có lợi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Thứ ba, thúc đẩy đầu tư thân thiện với môi trường và gắn với phát triển bền vững thông qua thực hiện các tiêu chuẩn, quy định về môi trường trong EVFTA. Thời gian trước đây, có nhiều dự án FDI tại Việt Nam gây ô nhiễm nghiêm trọng, gây tiêu tốn tài nguyên, năng lượng. Một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng những hạn chế của Việt Nam về các quy chuẩn kỹ thuật để tuồn những công nghệ lạc hậu, thâm dụng tài nguyên, thâm dụng năng lượng vào Việt Nam nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Gần đây có một xu hướng dịch chuyển dòng vốn FDI không thân thiện với môi trường như luyện kim, sửa chữa tàu biển, dệt may, da giày, khai thác và tận thu khoáng sản không gắn với chế biến sâu như sản xuất bột giấy, sản xuất hóa chất, chế biến nông sản thực phẩm... vào Việt Nam. Việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các tiêu chuẩn, quy định về môi trường trong thương mại và đầu tư (dưới sự giám sát của Ủy ban Thương mại và Phát triển bền vững được EVFTA lập nên để đánh giá việc thực hiện cam kết về phát triển bền vững) sẽ hạn chế dần và tiến tới loại bỏ các dòng vốn đầu tư có tiêu chuẩn thấp về công nghệ, môi trường, góp phần khuyến khích các dòng vốn thân thiện với môi trường.

Thứ tư, thúc đẩy các dòng vốn đầu tư gắn với cải thiện điều kiện, quan hệ lao động. Nhiều doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện nay sử dụng rất nhiều lao động kỹ năng thấp nhằm tận dụng lợi thế về nhân công giá rẻ. Đến cuối năm 2017, gần 80% số người làm việc trong các doanh nghiệp FDI là lao động chưa qua đào tạo, không có bằng cấp hoặc chứng chỉ và tỷ lệ này gần như không thay đổi kể từ năm 2011. Khi tuyển dụng, các doanh nghiệp FDI thường đào tạo lại lao động nhưng phần lớn


chỉ là những kỹ năng nghề nghiệp đơn giản; đào tạo trình độ, kỹ năng cao chiếm tỷ lệ nhỏ. Công nhân làm việc trong các khu công nghiệp không được đào tạo đầy đủ, thường chỉ được đào tạo làm một công việc cụ thể trong một khâu do quá trình chuyên môn hoá nên rất khó chuyển đổi nghề nghiệp trong dài hạn; từ đó yếu thế trong thoả thuận lương và các điều kiện lao động với chủ lao động. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, chưa quan tâm đến các lợi ích chính đáng của người lao động dẫn tới những tranh chấp giữa người lao động và người tuyển dụng lao động trong các doanh nghiệp FDI. Trong 06 tháng đầu năm 2019, đã xảy 67 cuộc đình công, trong đó 82% xảy ra tại các doanh nghiệp FDI và nhiều nhất ở doanh nghiệp Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc. Phần lớn đình công xảy ra trong các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, nhựa..., với nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ tranh chấp tiền lương, doanh nghiệp nợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, làm thêm giờ vượt quá quy định, điều kiện làm việc, vệ sinh môi trường không bảo đảm... Đặc biệt, các cuộc đình công xảy ra đều không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Việc thực hiện các tiêu chuẩn của ILO theo kế hoạch, lộ trình phù hợp được cam kết trong EVFTA sẽ thúc đẩy phát triển và hoàn thiện hệ thống quản trị thị trường lao động và quan hệ lao động theo hướng phục vụ tốt hơn lợi ích, nhu cầu của người lao động, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích, nhu cầu của người sử dụng lao động; tạo động lực mới đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động - công đoàn..

5.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu đối tác đầu tư theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, trong đó thúc đẩy đầu tư nhiều hơn từ các thành viên EU

Không chỉ được đối xử không kém thuận lợi hơn các nhà đầu tư Việt Nam, các nhà đầu tư EU còn được Nhà nước Việt Nam bảo hộ với nhiều cam kết ưu đãi cao như cam kết đối xử công bằng, cam kết bồi thường tổn thất cho nhà đầu tư EU trong trường hợp thiệt hại do xung đột vũ trang, cam kết cho phép nhà đầu tư EU chuyển các khoản thu nhập ra nước ngoài không hạn chế và không chậm trễ theo tỷ


giá chuyển đổi tự do… Với cam kết về tự do hóa, mở cửa đầu tư, bảo hộ đầu tư nói trên cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài của hiệp định EVFTA và EVIPA, các nhà đầu tư EU có lợi thế khi đầu tư vào Việt Nam hơn các nhà đầu tư của các nước khác mà Việt Nam chưa có cam kết về tự do hóa và bảo hộ đầu tư, do đó tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp EU vào Việt Nam, thúc đẩy đa phương hóa đối tác đầu tư ở Việt Nam.

Kết quả từ mô hình kinh tế lượng củng cố nhận định cho rằng Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU có tác động tích cực đối với dòng vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian tới. Theo kinh nghiệm từ các nước EU, việc cùng tham gia FTA có thể làm gia tăng 20% giá trị FDI từ EU vào các nước đang phát triển.

Các kết quả điều tra khảo sát doanh nghiệp châu Âu kinh doanh tại Việt Nam được EuroCham tiến hành cũng cho thấy các đánh giá tích cực của nhà đầu tư đối với Việt Nam. Kết quả chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) theo quý chỉ ra rằng kể từ quý 1 năm 2013, cảm nhận về môi trường kinh doanh tại Việt Nam của các doanh nghiệp châu Âu đã được cải thiện đáng kể theo thời gian. Cụ thể, trong năm 2013 chỉ số BCI chưa bao giờ vượt quá mức trung bình (50). Tuy nhiên, chỉ số này sau đó tăng nhanh, liên tục trong năm 2014 và đạt mức 78 vào quý cuối cùng. Đến năm 2015, chỉ số BCI có sự giao động nhẹ nhưng quý cuối cùng vẫn đạt mức 82 - cao hơn cuối năm 2014. BCI đạt mức kỷ lục là 86 vào Quý 2 năm 2016 và sau đó tiếp tục duy trì ổn định ở mức 77-78 ở các quý tiếp theo. Từ quý 2 năm 2018 đến quý 1 năm 2019, chỉ số BCI tiếp tục được cải thiện và luôn ở mức từ 80 điểm trở lên (Hình 5.1).

Việc các nhà đầu tư EU hiện đang có cảm nhận tốt về môi trường đầu tư tại Việt Nam là một tín hiệu rất tốt và có tác động tích cực đến thu hút FDI từ các nhà đầu tư EU mới. Theo kết quả của mô hình kinh tế lượng, yếu tố giá trị FDI lũy kế, hay đầu tư trước đó của các nhà đầu tư EU hiện tại có tác động đáng kể đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư EU tiếp theo.



Hình 5 1 Chỉ số môi trường kinh doanh BCI theo quý 2013 2018 Nguồn EuroCham 1

Hình 5. 1: Chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) theo quý, 2013-2018

Nguồn: EuroCham (2019)

Ghi chú: BCI có giá trị từ 0 – 100, trong đó 100 thể hiện mức độ tự tin cao nhất; 0 thể hiện mức độ tự tin thấp nhất; 50 thể hiện trạng thái trung lập.

5.1.1.4. Chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực đầu tư

Thứ nhất, EVFTA thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Cam kết của Việt Nam và EU trong EVFTA về thương mại dịch vụ đầu tư hướng tới việc tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên, trong đó cam kết của EU cho Việt Nam cao hơn cam kết của EU trong WTO và tương đương với mức cao nhất của EU trong các FTA gần đây của EU; đồng thời cam kết của Việt Nam cho EU cũng cao hơn cam kết của Việt Nam trong WTO và ít nhất là ngang bằng với mức mở cửa cao nhất mà Việt Nam cho các đối tác khác trong các đàm phán FTA hiện tại của Việt Nam (bao gồm cả CPTPP). Việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ cao hơn WTO sẽ thúc đẩy dòng đầu tư của EU vào lĩnh vực dịch vụ, qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế sang lĩnh vực dịch vụ.

Giai đoạn 2011-2016 chứng kiến sự thay đổi lớn trong cơ cấu FDI của EU vào ASEAN, trong đó rõ nét nhất là sự lên ngôi của dịch vụ tài chính và các lĩnh vực


dịch vụ khác (đặc biệt là bán buôn và bán lẻ) với tỷ trọng lên tới 85% tổng FDI từ EU vào ASEAN. Riêng dịch vụ tài chính tăng từ 18% giai đoạn 2005-2010 lên 26% trong giai đoạn 2011-2016. Tỷ trọng FDI trong các lĩnh vực dịch vụ khác tăng gấp hơn hai lần trong cùng 02 giai đoạn được so sánh ở trên, từ 26% lên đến 59% (ASEAN Secretariat và UNCTAD, 2017). Trong khi đó, đầu tư của EU tại Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu ở các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, sản xuất, phân phối điện, khí, bất động sản,... Đầu tư vào một số ngành dịch vụ như tài chính, bưu chính viễn thông, cho thuê văn phòng, bán buôn, bán lẻ,... tuy có sự gia tăng song vẫn còn hạn chế. Sở dĩ như vậy vì các chính sách mở cửa thị trường dịch vụ tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều rào cản. Việc ký kết FTA giữa EU và Việt Nam do đó được kỳ vọng sẽ làm gia tăng dòng vốn FDI của EU trong các lĩnh vực dịch vụ vốn là thế mạnh của các nước EU, phù hợp với xu hướng đầu tư ra nước ngoài của EU trong thời gian gần đây.

Theo phân tích, đánh giá tác động từ chương 4, một số ngành và phân ngành dịch vụ có khả năng gia tăng FDI từ EU vào Việt Nam nhiều nhất bao gồm: (i) dịch vụ kinh doanh (dịch vụ bà đỡ, y tá, bác sĩ trị liệu, nhân viên y tế không chuyên; lau dọn tòa nhà; chụp ảnh đặc biệt; máy tính); (ii) dịch vụ phân phối (đại lý, bán buôn, bán lẻ,...); (iii) dịch vụ tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán); (iv) dịch vụ vận tải (điều hành mặt đất, vận tải hành khách và hàng hóa, logistics như kiểm tra vận đơn, môi giới vận tải hàng hóa, giám định hàng hóa, lấy mẫu và xác định trọng lượng, giám định hàng hóa, nhận hàng, chuẩn bị chứng từ vận tải,...); (v) dịch vụ thông tin (bưu chính, chuyển phát, viễn thông); (vi) dịch vụ môi trường (vệ sinh, làm sạch khí thải, xử lý tiếng ồn, bảo vệ thiên nhiên và phong cảnh; (vii) dịch vụ y tế - xã hội (dịch vụ xã hội, bệnh viện và dịch vụ liên quan đến sức khỏe khác).

Đặc biệt, tài chính, viễn thông là hai ngành EU có thế mạnh và khả năng cạnh tranh cao, mở cửa thị trường sẽ kéo theo làn sóng đầu tư vào hai dịch vụ này. Một mặt EVFTA-IPA mở ra các cơ hội kinh doanh và bảo hộ có ý nghĩa cho các nhà cung cấp dịch vụ và đầu tư EU trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ở thị trường đầy tiềm năng Việt Nam. Cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính sẽ giúp người tiêu


dùng, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế được hưởng lợi, với khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính có chất lượng cao hơn, chi phí hợp lý hơn. Với tính chất là nhóm dịch vụ thiết yếu phục vụ sản xuất kinh doanh, là bệ đỡ tài chính cho phần lớn các hoạt động kinh tế, mở cửa và tăng cường cạnh tranh trên thị trường các dịch vụ tài chính; là cơ sở để các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí vốn, tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình và của cả nền kinh tế.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án cũng chỉ ra rằng EVFTA có thể giúp thu hút đầu tư của EU vào phát triển cơ sở hạ tầng. Việt Nam và EU cam kết mở cửa các gói thầu mua sắm Chính phủ cho các nhà thầu của nhau. Việt Nam mới chỉ là quan sát viên và chưa tham gia Hiệp định mua sắm công của WTO (GPA). Cụ thể, Việt Nam cam kết cho phép nhà thầu EU được tham gia đấu thầu các gói thầu mua sắm của 20 cơ quan trung ương và 02 địa phương (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh); trong lĩnh vực xây dựng, sau 5 năm kể từ ngày EVFTA-IPA có hiệu lực, nhà thầu EU được tham gia đấu thầu các gói thầu có giá trị từ 40 triệu SDR trở lên (khoảng 1.200 tỷ đồng). Do đó, các cam kết về mua sắm công của EVFTA tạo cơ hội lớn cho các nhà thầu EU tham gia các dự án phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam (phần lớn sử dụng đầu tư công).

Thứ ba, các cam kết tiêu chuẩn cao trong EVFTA thúc đẩy đầu tư vào các ngành có giá trị gia tăng cao ở trong nước, thân thiện với môi trường thông qua việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa và các cam kết về môi trường, phát triển bền vững. Đầu tư nước ngoài sẽ giảm dần vào các ngành thâm dụng lao động,

5.1.1.5. Thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh

Với các cam kết có phạm vi cam kết rộng, gắn với phát triển xanh, bền vững và tái cơ cấu vượt ra ngoài các nội dung thương mại thuần túy, mở rộng sang các lĩnh vực minh bạch hóa chính sách, cạnh tranh công bằng, phát triển bền vững, môi trường, lao động, thương mại điện tử, mua sắm công,... EVFTA rõ ràng có tác động rất lớn đến việc điều chỉnh thể chế, pháp luật trong nước cũng như tạo ra áp lực để Chính phủ thực hiện các giải pháp nhằm cải thiện đáng kể môi trường đầu tư kinh

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 27/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí