doanh tại Việt Nam. Những nỗ lực cải cách nổi bật có thể kể đến như cắt giảm, đơn giản hóa ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; thay đổi phương thức quản lý Nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành (áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm,...); chú trọng cải thiện các quy định, thủ tục nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; đẩy mạnh Chính phủ điện tử và giao dịch không dùng tiền mặt; cải cách thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp; giảm chi phí doanh nghiệp, từng bước tạo lập thể chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo.
Cùng với nỗ lực của các cơ quan Chính phủ, môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt trong thời gian gần đây. Theo Báo cáo về Năng lực cạnh tranh 4.0 (GCI 4.0) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF 2019), năm 2019 Việt Nam là nền kinh tế có mức độ cải thiện điểm số và tăng hạng tốt nhất toàn cầu. Trong 12 trụ cột được đánh giá, Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc trong 8/12 trục cột bao gồm: (i) Ứng dụng công nghệ thông tin (số lượng thuê bao internet, di động,...); (ii) thị trường sản phẩm (chỉ số về cạnh tranh, độ mở thương mại,...); (iii) mức độ năng động trong kinh doanh (tăng trưởng của doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp có ý tưởng đột phá,...); (iv) thị trường lao động (di cư lao động trong nước, mức độ dễ dàng tuyển dụng lao động nước ngoài, mức độ linh hoạt của tiền lương, quan hệ giữa người lao động – người sử dụng lao động, thực tiễn tuyển dụng và sa thải lao động,...); (v) năng lực đổi mới sáng tạo (mức độ tinh thông của người mua, mức độ phát triển của cụm ngành, hợp tác đa bên, tính đa dạng của lực lượng lao động, chi phí R&D,...); (vi) thể chế (mức độ định hướng tương lai của Chính phủ,...; (vii) kỹ năng (chất lượng đào tạo nghề, kỹ năng của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp, mức độ đào tạo nhân viên, mức độ dễ dàng tìm kiếm lao động lành nghề, tư duy phản biện trong giảng dạy,...); (viii) quy mô thị trường. Mặc dù vẫn tồn tại những mặt còn hạn chế, cần tiếp tục cải thiện trong tương lai, song các kết quả cải thiện về năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã phần nào phản ánh được những nỗ lực liên tục của Chính phủ trong những năm gần
đây để cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo để thích ứng và đột phá trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập ở mức độ cao.
5.1.1.6. Thúc đẩy Việt Nam tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất toàn cầu và khu vực
EVFTA mang lại cơ hội cho Việt Nam để tham gia ngày càng sâu hơn vào mạng lưới sản xuất toàn cầu và khu vực, đặc biệt là các chuỗi có sự dẫn dắt và tham gia của các đối tác EU tại khu vực ASEAN. Đối với EU, việc tạo lập các chuỗi như vậy giúp họ có thể tiếp cận được một trung tâm lắp ráp đang phát triển trong ASEAN và khu vực châu Á rộng lớn hơn. Đối với Việt Nam, điều này thúc đẩy mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với EU – một trung tâm công nghiệp lớn, nhà đầu tư quan trọng tại châu Á và giúp cải thiện vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị nội khối ASEAN. Không chi các doanh nghiệp EU mà doanh nghiệp từ các quốc gia khác cũng có thể gia tăng các hoạt động sản xuất tại Việt Nam như một phương thức để có thể tiếp cận thị trường EU một cách ưu đãi hơn nhờ các cam kết mà EVFTA mang lại. Các doanh nghiệp Việt Nam do đó có thể tận dụng cơ hội này để gắn kết với các chuỗi giá trị được các doanh nghiệp EU hoặc của nước thứ ba tạo ra. Trong các ngành như da giầy và dệt may, các quy tắc xuất xứ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình hoạt động chuỗi giá trị tại Việt Nam, tạo động lực mạnh mẽ cho việc phát triển sản xuất các nguyên liệu đầu vào. Bên cạnh đó, EVFTA thúc đẩy Việt Nam áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế sẽ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sản xuất các sản phẩm đầu vào cho một số ngành như dược phẩm. Điều này mang đến cho Việt Nam cơ hội vượt qua một số nhà sản xuất đặt trụ sở chính tại Trung Quốc vốn đang ngày càng chịu nhiều áp lực do chi phí lao động gia tăng; dẫn tới việc thay thế các sản phẩm đầu vào dược phẩm từ Trung Quốc sang Việt Nam như một bước trung gian trong chuỗi giá trị của EU. Sự tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị của EU thông qua việc sản xuất nguyên liệu thô cũng giúp Việt Nam đẩy mạnh việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế nhằm giành được các khâu sản xuất trong cạnh tranh với các nền kinh tế Đông Nam Á khác.
5.1.1.7. Tăng cường sự liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước, từ đó thúc đẩy tác động lan tỏa của FDI
Hiện nay, sự liên kết lỏng lẽo giữa doanh nghiệp khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước là một trong những nút thắt khiến cho tác động lan tỏa của FDI tại Việt Nam còn hạn chế. Số lượng doanh nghiệp nội địa cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI vẫn rất ít. Theo kết quả điều tra của VCCI, tỷ lệ doanh nghiệp trong nước cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp FDI chỉ chiếm khoảng 26%. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp FDI vẫn nhập nguồn đầu vào từ các doanh nghiệp của nước đầu tư (chiếm 49,2%) và doanh nghiệp của nước thứ ba (26,6%) (Vũ Tiến Lộc, 2017). Tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp FDI cao do doanh nghiệp trong nước chỉ đáp ứng được khoảng hơn 20% nhu cầu (UNIDO & Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2012). EVFTA có thể giúp gia tăng sự liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước thông qua các cam kết nới lỏng tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư EU trong hình thức liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam trong một số lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, viễn thông,...
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Khác Và Tác Động Của Evfta Đến Fdi Vào Việt Nam
- Một Số Hàm Ý Chính Sách Đối Với Việt Nam Nhằm Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Trong Bối Cảnh Tham Gia Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt
- Chỉ Số Môi Trường Kinh Doanh (Bci) Theo Quý, 2013-2018
- Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư, Nâng Cao Trình Độ Công Nghệ Và Cải Thiện Chất Lượng Nguồn Nhân Lực
- Đánh giá tác động dự kiến của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - 25
- Đánh giá tác động dự kiến của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - 26
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
5.1.2. Thách thức
Tuy nhiên, bên cạnh rất nhiều cơ hội, Việt Nam cũng phải đối diện với các thách thức không nhỏ đến từ EVFTA.
Thứ nhất, thách thức lớn và trực diện nhất là sức ép cạnh tranh sẽ gay gắt hơn trên cả ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm do phải thực hiện những cam kết sâu rộng, tiêu chuẩn cao với thời gian chuyển đổi ngắn hơn so với WTO. Nguy cơ nhiều ngành, doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn là hiện hữu, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay tại thị trường nội địa do nhiều doanh nghiệp, nhà sản xuất trong nước có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ, quản lý, năng suất lao động và khả năng cạnh tranh thấp. Sức ép cạnh tranh trở nên gay gắt nhất trong những ngành mà FDI có thể gia tăng nhiều nhất từ EU như dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm và một số phân ngành dịch vụ trong các ngành dịch vụ kinh doanh, dịch vụ phân phối, dịch vụ tài chính, dịch vụ vận tải, dịch vụ thông tin, dịch vụ môi trường, dịch vụ y tế, xã hội như đã liệt kê ở chương 4.
Thứ hai, những nội dung cam kết mới đối với Việt Nam như lao động, môi trường, mua sắm chính phủ, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, ... đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam trong việc điều chỉnh pháp luật, cải cách thể chế, thực hiện đổi mới và nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cán bộ quản lý Nhà nước. Pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có quy định hoặc đã có quy định nhưng chưa tương thích với nhiều cam kết trong EVFTA, đặc biệt là các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, lao động – công đoàn, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư, mở cửa lĩnh vực dịch vụ,...
Thứ ba, dòng vốn FDI từ các đối tác bên ngoài EU gia tăng nhằm tận dụng các ưu đãi mà EU dành cho Việt Nam có thể mang đến một số thách thức. Đặc biệt, trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, dòng vốn FDI từ Trung Quốc sang Việt Nam có thể tăng mạnh. Điều này dẫn tới lo ngại về việc lợi ích từ EVFTA có thể rơi vào các doanh nghiệp của một nước thứ ba thay vì mang tới lợi ích cho các doanh nghiệp của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc đầu tư vào Việt Nam sau đó xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU khiến lượng xuất khẩu từ Việt Nam có thể gia tăng đột biến, dẫn tới nguy cơ các nước EU áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ tư, các yếu tố không thuận lợi như sự trì trệ của kinh tế EU, nguy cơ khủng hoảng kinh tế sau dịch COVID-19 có thể hạn chế lợi ích của EVFTA đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI. Nền kinh tế EU đang phải đối mặt với nhiều thách thức như tăng trưởng kinh tế chậm (năm 2018 tăng trưởng 1,8% - giảm so với mức 2,3% của năm 2017), đầu tư và sức mua suy giảm (biểu hiện qua lạm phát rất thấp). Thực tế, dòng vốn FDI từ EU đang có xu hướng giảm và dòng vốn FDI của EU vào các thị trường mới nổi đã ký cam kết FTA với EU như Chile, Mexico, khối thị trường chung Nam Mỹ (Mecosur) cũng không tăng trong những năm gần đây. Điều này đặt ra thách thức liệu dòng đầu tư FDI từ EU vào Việt Nam có cải thiện mạnh mẽ như kỳ vọng cũng như những đánh giá định lượng hay không khi mà sức cạnh tranh và tăng trưởng tiềm năng của EU đang có chiều hướng suy yếu. Bên cạnh đó, diễn biến dịch COVID-19 đang hết sức phức tạp và EU là một trong những điểm
tâm dịch. Tác động của COVID-19 đến nền kinh tế thế giới và EU chưa được xác định cụ thể song có thể ở mức nghiêm trọng. Điều này có thể ảnh hưởng mạnh tới khả năng gia tăng FDI từ EU vào Việt Nam vì trong quá khứ, FDI từ EU vào khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng thường giảm mạnh trong những thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới.
5.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút dòng vốn FDI trong bối cảnh tham gia EVFTA
Việc thực hiện các cam kết của hiệp định EVFTA cũng như các FTA thế hệ mới khác sẽ đưa hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với cấp độ cao hơn và sâu rộng hơn, có cơ hội đan xen thách thức. Trong đó, nếu không tận dụng, khai thác tốt các cơ hội, lợi ích của EVFTA thì thách thức, khó khăn sẽ càng lớn; ngược lại, nếu biết cách vượt qua được thách thức, khó khăn thì cơ hội, lợi ích mở ra cho Việt Nam rất nhiều. Việc tận dụng cơ hội, lợi ích và vượt qua khó khăn, thách thức đến đâu phụ thuộc vào quyết tâm và nỗ lực của chính Việt Nam. Do đó, giải pháp căn cơ và lâu dài để tranh thủ tối đa cơ hội, lợi ích của EVFTA là đẩy mạnh một cách thực chất cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, củng cố và phát triển các nền tảng phát triển như nguồn nhân lực, khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của các ngành và của doanh nghiệp.
5.2.1. Tăng cường công tác nghiên cứu, tuyên truyền và phổ biến về EVFTA
EVFTA là một Hiệp định rộng và phức tạp, có tác động đa chiều tới luồng vốn FDI thông qua nhiều kênh đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, theo nhận định của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và ý kiến của các chuyên gia đã phỏng vấn, số lượng doanh nghiệp Việt Nam có am hiểu về các cam kết và tác động của Hiệp định EVFTA còn ít. Điều này có thể làm hạn chế khả năng của doanh nghiệp trong việc tận dụng các cơ hội cũng như chuẩn bị sẵn sàng trước các thách thức mà EVFTA mang lại. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường nhận thức, tuyên truyền và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tác động của EVFTA đối với FDI là vô cùng quan trọng. Điều này giúp Nhà nước, doanh nghiệp và người dân có hiểu biết
cặn kẽ về các tác động của EVFTA, từ đó có sự chuẩn bị kỹ càng về chính sách, chiến lược, điều chỉnh hoạt động,…
Các biện pháp tăng cường công tác nghiên cứu, tuyên truyền và phổ biến về EVFTA cần được thực hiện sớm và hiệu quả vì như đã phân tích ở các chương trước lợi thế từ việc ký kết FTA sớm với EU chỉ tồn tại trong ngắn hạn khi các đối thủ cạnh tranh thu hút FDI chính trong khu vực ASEAN chưa có FTA với EU. ASEAN và EU cùng có chủ trương hướng đến một FTA chung giữa hai khu vực. Ngoài Việt Nam và Singapore đã ký kết FTA với EU, EU đang tiếp tục đàm phán FTA với một số nước ASEAN (Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia). Khi đàm phán một số lượng đáng kể các FTA song phương với từng nước ASEAN hoàn tất, ASEAN và EU sẽ lấy đó làm nền tảng để thực hiện một FTA giữa hai khu vực. Với các tiếp cận như vậy, việc đa số các nước ASEAN sẽ có FTA với EU, và kể cả một FTA giữa cả 10 nước ASEAN với EU, cơ bản sẽ dần được hiện thực hóa. Khi đó, lợi thế mà Hiệp định EVFTA tạo ra cho Việt Nam sẽ không còn nữa do doanh nghiệp các nước ASEAN cũng sẽ được hưởng những cơ chế tương tự trong FTA của nước họ với EU. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng triệt để “khoảng thời gian vàng” khi các nước ASEAN chưa có FTA với EU, khai thác lợi thế tiếp cận thị trường cũng như thu hút FDI từ các nước EU.
Để tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về Hiệp định EVFTA, Nhà nước cần: (i) Tăng cường phổ biến về Hiệp định EVFTA cho các đối tượng có liên quan, đặc biệt là các đối tượng có thể chịu tác động như cơ quan quản lý cấp Trung ương và địa phương, nhà đầu tư, tổ chức tư vấn, hiệp hội ngành nghề, cộng đồng doanh nghiệp thông qua các phương tiện truyền thông, trang thông tin điện tử, các lớp tập huấn, hội thảo, tài liệu nghiên cứu, bình luận nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về nội dung cam kết cũng như tác động và các công việc cần triển khai để thực thi hiệu quả Hiệp định EVFTA; (ii) Thiết lập đầu mối thông tin về EVFTA để cung cấp thông tin, hướng dẫn và làm rõ các nội dung cam kết và các vấn đề có liên quan đến Hiệp định EVFTA và các FTA khác mà Việt Nam tham gia.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu chuyên sâu tác động của EVFTA đối với các ngành, phân ngành và của các doanh nghiệp cụ thể là hết sức quan trọng, đặc biệt trong những ngành có thể chịu sức ép cạnh tranh lớn từ sự gia tăng FDI trong bối cảnh hội nhập EVFTA như các ngành đã nêu trong nghiên cứu này, như dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm và một số phân ngành dịch vụ cụ thể. Hoạt động nghiên cứu về tác động của Hiệp định EVFTA nên được phối kết hợp giữa các cơ quan nghiên cứu với cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội ngành nghề và các doanh nghiệp.
5.2.2. Rà soát, điều chỉnh về pháp luật, thể chế đồng thời nâng cao khả năng thực thi của các quy định pháp lý
Theo kết quả phỏng vấn chuyên gia được trình bày ở chương 4, kênh tác động nhiều nhất của EVFTA đến FDI vào Việt Nam là thông qua cải cách về thể chế, chính sách và cải thiện môi trường đầu tư. Trong ngắn hạn, FDI gia tăng chủ yếu thông qua các kênh tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Đồng thời, khả năng nâng cao chất lượng dòng vốn FDI chủ yếu thông qua việc thực hiện các cam kết mở rộng như sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, minh bạch hóa, lao động, môi trường,... Vì vậy, Việt Nam cần thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và hiệu quả các cam kết và nghĩa vụ trong EVFTA nhằm tranh thủ tốt các cơ hội và lợi ích của EVFTA.
Để làm được điều đó, Việt Nam cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể về rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo phù hợp với các cam kết trong EVFTA. Rà soát, công bố và kiểm soát chặt chẽ các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định của Luật Đầu tư; đẩy mạnh công tác phổ biến, hướng dẫn và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý Nhà nước để đảm bảo thực hiện đầy đủ, nhất quán các quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh các văn bản pháp luật, tiêu chuẩn liên quan đến lao động, môi trường, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ để phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong EVFTA.
Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, cần đảm bảo việc thực hiện cơ chế tham vấn, lấy ý kiến các đối tượng có liên quan. Có ý kiến giải trình, tiếp thu phù hợp với các ý kiến đóng góp để đảm bảo không phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp trong việc hiểu và áp dụng quy định của EVFTA trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật trong nước. Việt Nam cần xây dựng cơ chế phối hợp trong nước về giải quyết tranh chấp đầu tư để tương thích kịp thời với cơ chế mới trong EVFTA. Đồng thời, chuẩn bị và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ pháp lý tham gia vào quá trình phòng ngừa, giải quyết khiếu nại và tranh chấp của nhà đầu tư cũng như các thiết chế cần phải có nhân sự nằm trong các Hội đồng giải quyết tranh chấp (Chương 15), Hội đồng chuyên gia (Chương 13) và Ủy ban (Chương 17).
Không chỉ rà soát, điều chỉnh về quy định, văn bản pháp lý mà Việt Nam cũng cần nâng cao hiệu quả thực thi các quy định nhằm tránh các tranh chấp xảy ra và đảm bảo được hưởng lợi thực chất từ các cam kết trong Hiệp định.
5.2.3. Xây dựng định hướng, chiến lược và các chính sách chủ động thu hút FDI có chọn lọc, đặc biệt là FDI từ EU
Sau hơn 30 năm Việt Nam thu hút FDI, dòng vốn này đã có những đóng góp lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam thực hiện mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu kinh tế hiện đại, đòi hỏi cần có sự điều chỉnh chiến lược và chính sách thu hút FDI cho phù hợp. Ngày 20/08/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50 – NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Việc đưa cả mục tiêu về số lượng và chất lượng về FDI vào trong Nghị quyết thể hiện sự thay đổi trong nhận thức và quyết tâm của Việt Nam trong việc hướng tới hiệu quả trong thu hút và sử dụng dòng vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Để cụ thể hóa, Chính phủ đã xây dựng Dự thảo “Chiến lược và định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới giai đoạn 2018-2030” hướng tới chủ động thu hút FDI tạo ra giá trị gia tăng cao, giới thiệu công nghệ mới và các hoạt động R&D chuyên sâu và hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ để giúp doanh nghiệp trong nước hội nhập