Từ năm 1956-1958, kế tiếp ngay sau CCRĐ nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ thực hiện “Đổi công, vần công”, nông dân tương thân tương ái giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp.
Năm 1960 ở miền Nam lập các Nha Khuyến nông trực thuộc Bộ cải cách điền địa Nông-Ngư mục. Thành lập các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (HTX) bậc thấp, 1968 HTX bậc cao, 1974 HTX toàn xã. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp vào giai đoạn này có một ý nghĩa lịch sử lớn lao. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp nông dân “Cùng làm cùng hưởng” đã tạo điều kiện cực kỳ quan trọng giúp cho Đảng và Nhà nước huy động được mức độ tối đa sức người, sức của phục vụ cho tiền tuyến, phục vụ cho công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước. Công tác khuyến nông giai đoạn này chủ yếu triển khai đến HTX. Phương pháp khuyến nông chủ yếu đưa TBKT nào sản xuất, xây dựng các mô hình HTX sản xuất tiến bộ như: HTX Tân Phong, HTX Vũ Thắng Thái Bình.
Trước thực trạng sản xuất nông nghiệp trì trệ và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tháng 1 năm 1981, Chỉ thị 100 của BCH TW Đảng: “Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động”, còn gọi là “Khoán 100” được ra đời. HTX nông nghiệp chỉ quản lý 5 khâu: Đất- nước- giống- phân bón và bảo vệ thực vật còn toàn bộ các khâu khác khoán cho nhóm và người lao động. “Khoán 100” đã có tác dụng to lớn khích lệ nông dân sản xuất. Ngoài sản lượng nông sản phải nộp HTX còn lại người nông dân được tự do sử dụng.
Ngay năm 1988, An Giang khá sáng tạo đã vận dụng cơ chế sản xuất mới trong điều kiện cụ thể của địa phương, học tập kinh nghiệm của các nước thành lập Trung tâm Khuyến nông nhằm đáp ứng cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp của nông dân trong tỉnh.
Năm 1992, Để điều phối và lãnh đạo công tác khuyến nông của đất nước, Bộ Nông nghiệp thành lập “Ban điều phối Khuyến nông”.
1.3.2.2 Sau cuối năm 1993
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền nông nghiệp nước ta đã có những bước phát triển nhanh, đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp, quy mô nhỏ, chúng ta đã vươn lên để dần dần trở thành một nước có nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có tỷ suất hàng hoá ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta đã trở thành một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu gạo, cà phê, điều, tiêu, thuỷ hải sản... trên thị trường quốc tế.
Trong những năm qua, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ (giống, chế phẩm, quy trình công nghệ mới) được chuyển giao áp dụng vào sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Các giống cây trồng mới như: lúa, cao su, cà phê, tiêu... đạt năng suất cao hàng đầu thế giới, việc áp dụng các quy trình công nghệ mới đã giảm chi phí đầu tư, góp phần tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế. Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ được thúc đẩy tập trung vào các sản phẩm chủ lực của ngành, từ đó góp phần tạo thêm ngành nghề mới, thêm việc làm mới ở nông thôn. Trong lĩnh vực trồng trọt đã công nhận được 48 giống lúa mới giúp tăng 10 - 15% năng suất. 26 giống ngô mới được công nhận, có nhiều giống khả năng chịu hạn, sâu bệnh, năng suất tốt có thể lên tới 10 tấn/ha, tương đương các giống ngô nhập nội. Tính đến hết năm 2013, có 47 giống cây trồng được tạo ra bằng ngân sách nhà nước được chuyển nhượng cho doanh nghiệp. Lĩnh vực công nghệ sinh học, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp, thủy sản, công nghệ chế biến, bảo quản và sau thu hoạch, thủy lợi đã đạt được một số thành tựu nhất định. Kết quả một số chương trình khuyến nông điển hình như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá kết quả thực hiện một số mô hình khuyến nông trên địa bàn huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2016 - 2018 - 2
- Mục Đích Và Nguyên Tắc Của Khuyến Nông
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Mô Hình Khuyến Nông
- Đặc Điểm Địa Bàn Nghiên Cứu Vị Trí Địa Lý
- Sơ Đồ Phương Hướng Giải Quyết Các Vấn Đề Của Đề Tài
- Lựa Chọn, Nghiên Cứu Một Số Mô Hình Điển Hình
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
Chương trình khuyến nông trồng trọt
Chương trình khuyến nông phát triển lúa lai thương phẩm
Từ năm 1993 đến nay chương trình khuyến nông đã hỗ trợ 8.114 tỷ đồng, xây dựng được 2.258.335 ha trình diễn (diện tích cộng dồn). Trong những năm gần đây diện tích gieo cấy lúa lai thương phẩm đạt từ 530 - 630 ngàn ha, năng suất bình quân tăng so với lúa thuần 10 - 15 tạ/ha. Như vậy, nhờ phát triển lúa lai đã làm tăng sản lượng lúa lên 700.000 tấn/năm (tương đương 1.260 tỷ đồng/năm). Địa bàn phát triển lúa lai thương phẩm không ngừng mở rộng không chỉ ở Đồng bằng sông Hồng, Trung du Miền Núi phía Bắc mà còn mở rộng ra các tỉnh Duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên.
Chương trình khuyến nông phát triển lúa chất lượng
Chương trình mới bắt đầu triển khai trong những năm gần đây, tập trung tại hai vùng sản xuất lúa chính là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, nhằm ổn định vùng sản xuất lúa hàng hoá có chất lượng cao, bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Từ kết quả nghiên cứu, chọn tạo và nhập nội một số giống lúa có chất lượng cao, khuyến nông đã tập trung tổ chức xây dựng mô hình trình diễn và nhân nhanh các giống lúa: Bắc Thơm 7, Hương Thơm 1, các giống lúa P, nhóm lúa đặc sản (Tám Xoan, Dự Hương, Nếp Cái Hoa Vàng, Nàng Hương chợ Đào), OM1490, OMSC2000, VND.95-20, MTL.250... để cung cấp cho nông dân.
Chương trình phát triển ngô lai
Chương trình phát triển ngô lai đã nâng cao năng suất ngô từ 21,1 tạ/ha năm 1995, lên 32 tạ/ha năm 2004 và năm 2008 lên gần 40 tạ/ha. Tỉ lệ sử dụng giống ngô lai tăng nhanh từ 20% năm 1992 lên trên 80% năm 2008
Chương trình khuyến nông phát triển ngô lai được ngân sách nhà nước hỗ trợ 19,682 tỉ đồng, triển khai trên quy mô 8.856 ha, trong đó sản xuất hạt giống
1.100 ha, thâm canh 7.770 ha. Năng suất hạt lai đạt 25-30 tạ/ha, giá thành 1 kg hạt giống sản xuất trong nước chỉ bằng 2/3 giá thành hạt giống nhập nước ngoài.
Các giống được sử dụng trong mô hình là LVN10, LVN4, B9698, DK888, DK999, C919...
Chương trình khuyến nông cây công nghiệp dài
Mô hình được triển khai tập trung ở các tỉnh Miền Bắc, Miền Trung và Đông Nam bộ thu hút trên 20 nghìn hộ nông dân tham gia với kinh phí hỗ trợ 64,4 tỷ đồng xây dựng được 19.400 ha mô hình trình diễn. Chương trình tập trung chuyển giao công nghệ nhân giống như ghép, cắt cành, ghép cải tạo nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cho tiêu dùng và nguyên liệu chế biến công nghiệp, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho nông dân, đặc biệt quan trọng đối với vùng sản xuất chè, cà phê, cao su, tiêu... Chương trình khuyến nông đã cung cấp cho sản xuất hàng chục triệu cây giống tốt như chè LDP1, LDP2, TB14, Shan chọn lọc, Bát Tiên, cà phê Catimor, cao su...
Chương trình khuyến nông chăn nuôi
Chương trình khuyến nông phát triển chăn nuôi bò sữa
Bằng cách sử dụng tinh bò đực giống Holstein Friesian phối với bò cái nền Lai Sind đã tạo ra được khoảng 6.000 đàn bò cái lai hướng sữa F1, F2... Nhờ triển khai tốt các mô hình khuyến nông nên năng suất sữa của đàn bò trong mô hình bao giờ cũng cao hơn mô hình đại trà từ 15 - 20%. Đầu tư phát triển chăn nuôi bò sữa yêu cầu kỹ thuật cao và đồng bộ, do đó chương trình mới phát triển được ở một số vùng như Mộc châu (Sơn La), Hà Tây, T.P Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An, Lâm Đồng... Quy mô thực hiện mô hình là 6.500 con với kinh phí 16,50 tỷ VNĐ. Chương trình đã góp phần nâng tổng đàn bò sữa từ vài ngàn con lên gần trăm ngàn con vào năm 2008 và năng suất sữa vài ngàn tấn lên 240.000 tấn vào năm 2008.
Chương trình vỗ béo bò thịt
Chương trình vỗ béo bò thịt tương đối dễ thực hiện và đã mang lại hiệu quả kinh tế rò rệt thông qua việc cho bò ăn tối đa lượng thức ăn theo khẩu phần dinh dưỡng hợp lý và đảm bảo tiêu chuẩn về chuồng trại, vệ sinh thú y trong chăn nuôi bò. Người nông dân đã áp dụng kỹ thuật để nuôi những bò đực, bò
cái hậu bị loại thải, bê đực sữa, bò già loại thải trước khi giết thịt, đưa khả năng tăng trọng của bò từ 300gr/con/ngày lên trên 700 gr/con/ngày. Chương trình đã được bà con nông dân nhiệt tình hưởng ứng.và thu hiệu quả kinh tế cao. Do đầu tư mô hình không cần vốn lớn nên chương trình đã có sự tham gia của nhiều hộ nông dân nghèo, ở vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa.
Công tác khuyến nông đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào những thành tựu phát triển nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực và tăng thu nhập cho đồng bào DTTS. Tuy nhiên, những thách thức đối với giảm nghèo bền vững trong đồng bào DTTS đòi hỏi cấp bách phải có những đổi mới cơ bản về khuyến nông và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Ngày 10/6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, trong đó đã giao nhiệm vụ cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các bộ ngành liên quan rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến nông và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, nhằm “nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư dân nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực, giảm tỷ lệ đói nghèo”. Để góp phần cung cấp thông tin thảo luận chính sách giảm nghèo ở vùng đồng bào DTTS, trong năm 2014 tổ chức Oxfam đã tiến hành một chuyên đề phân tích chính sách về “khuyến nông và hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp” tại 7 tỉnh có đông đồng bào DTTS gồm Lào Cai, Hòa Bình, Nghệ An, Quảng Trị, Đắk Nông, Ninh Thuận và Trà Vinh6, trong khuôn khổ dự án “Theo dòi và phân tích chính sách giảm nghèo” giai đoạn 2014-2016 do Cơ quan viện trợ Ai Len (Irish Aid) và Cơ quan hợp tác phát triển Thụy Sĩ (SDC) tài trợ. Chuyên đề này tập trung tìm hiểu một số vấn đề trọng tâm, những điển hình thực hành tốt ở các địa bàn khảo sát, nêu các khuyến nghị chính sách ở cấp Trung ương và giải pháp triển khai ở các cấp địa phương về công tác khuyến nông và hỗ trợ phát triển sản xuất hướng đến giảm nghèo ở vùng đồng bào DTTS.
* Một số chương trình khuyến nông tại tỉnh Bắc Kạn
Chương trình chuyển giao kỹ thuật canh tác lúa cải tiến SRI: Được đưa vào huyện Pác Nặm từ năm 2010 có những ưu điểm: tiết kiệm được 70-90%
lượng giống đối với lúa thuần, 20 - 30% lượng đạm, 1/3 lượng nước tưới, tỷ lệ sử dụng thuốc trừ sâu giảm trung bình 45%, chi phí thủy lợi giảm 35%. Nhờ có việc tiết kiệm đầu vào và tăng năng suất đã giúp tăng lợi ích lên trung bình 50% lợi nhuận.
Chương trình chuyển giao kỹ thuật sử dụng phân viên nén dúi sâu nhả chậm.
Năm 2013 tại 3 huyện Pác Nặm, Ba Bể, Na Rì thực hiện thử nghiệm 17,5 ha, vụ xuân năm 2014 diện tích được người dân áp dụng đã được mở rộng lên 50 ha. Việc áp dụng kỹ thuật này đã giúp giảm lượng phân đạm từ 5 - 9 kg đạm/1000 m2 ruộng, hạn chế sâu bệnh và lốp đổ, giảm công lao động do chỉ bón một lần sau cấy, hạn chế thất thoát phân bón do xói mòn và rửa trôi. Kỹ thuật thực hiện đơn giản và phù hợp với người nghèo trình độ thấp.
Chương trình lựa chọn giống lúa chất lượng cao ĐTL II phù hợp với Bắc
Kạn
Đây là giống lúa được Chi cục BTVT thực hiện từ vụ xuân 2013, tại 4 xã
dự án với tổng diện tích 2ha. Với đặc tính ưu việt như khả năng chống chịu với những điều kiện không thuận lợi như: sâu bệnh, hạn hán và có năng suất cao (62 - 64 tạ/ha), vụ xuân năm 2014 giống lúa này đã nhân rộng ra 15,8 ha tại huyện Pác Nặm. Sau khảo nghiệm thành công, giống lúa này đã được bổ sung vào cơ cấu cây trồng của tỉnh từ vụ xuân năm 2014 theo Quyết định số 918/SNN-KHTC, ngày 09/9/2013.
Chương trình chuyển giao kỹ thuật ủ phân vi sinh hữu cơ từ rác thải nông nghiệp và ủ phân vi sinh từ bã thải cây dong riềng
Kỹ thuật này được triển khai thông qua Hội nông dân và Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh. Hiện nay việc chế biến phân hữu cơ từ rác thải nông nghiệp đang được phát triển mạnh ở xã Cao Tân, huyện Pác Năm, ủ phân vi sinh từ bã thải cây dong riềng được đẩy mạnh tại xã Côn Minh, huyện Na Rì. Sử dụng phân vi sinh đã giúp làm giảm 40% lượng phân hóa học góp phần giảm ô nhiễm môi
trường và cải tạo đất tốt hơn, tăng khả năng chống chịu của cây trồng, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Chương trình chuyển giao kỹ thuật ủ chua sắn làm thức ăn chăn nuôi lợn
Kỹ thuật này đã được nhân rộng trên 3 Pác Nặm, Ba Bể và Na Rì với số 2.836 hộ hộ áp dụng, trong đó có 1.087 hộ nghèo và 486 hộ cận nghèo. Mô hình được nghiên cứu và phát triển thông qua hợp tác giữa 3PAD và dự án 4FGF (dự án hỗ trợ kỹ thuật do IFAD tài trợ thực hiện tại Việt Nam, Lào và Campuchia). Việc áp dụng kỹ thuật này đã giúp làm giảm 50% lượng thức ăn tinh từ ngô, gạo, giảm được 60% công lao động do không phải đun, nấu, lấy củi, rút ngắn thời gian chăn nuôi trung bình từ 0,5 - 1,5 tháng đối với chăn nuôi lợn lai và 3-5 tháng đối với lợn địa phương, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có từ địa phương. Từ những yếu tố đó, kỹ thuật này đã làm giảm giá thành chăn nuôi lợn từ 10 - 20%, tăng hiệu quả kinh tế. Do việc áp dụng rất đơn giản, dễ làm, đầu tư rất thấp, nên kỹ thuật này phù hợp với hộ nghèo và dân tộc thiểu số vùng cao.
Một số mô hình trồng cây ăn quả
Trong năm 2015, Trung tâm Khuyến nông Khuyến lâm tỉnh tiếp tục thực hiện Đề tài “Nghiên cứu thử nghiệm một số cây trồng trên đất sau trồng cam quýt và cải tạo vườn quả kém chất lượng tại xã Quang Thuận, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn” năm thứ 3. Kết quả đã đề xuất lựa chọn 01 loại cây trồng đối với 6 loại cây trồng đưa vào thử nghiệm trên đất đồi thấp, đó là cây ổi Đài Loan, cây có khả năng sinh trưởng phát triển mạnh nhất, sau một năm đã cho thu hoạch quả và cho thu hái quanh năm, mang lại giá trị kinh tế cao nhất. Còn đối với đất đồi cao đề xuất lựa chọn cây trám, sấu vì hai loại cây này không kén chọn đất sấu, khả năng sinh trưởng tốt và sau 3 năm đã cho thu quả, tiềm năng giá trị kinh tế cao. Đối với nội dung vườn cải tạo: Thực hiện tại hai hộ với tổng diện tích 1ha; cây sinh trưởng phát triển tốt đã thu hoạch quả 2 năm ổn định. Ước tính sản lượng quýt tăng khoảng 15 - 20% so với vườn đại trà cùng tuổi,
mẫu mã quả đẹp được các hộ tham gia đánh giá rất cao đã đem lại lợi ích thiết thực cho người dân.
* Đánh giá chung về công tác khuyến nông Việt Nam
Xây dựng, phát triển khuyên nông nước ta đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn, khuyến nông - Việt Nam đã có thế mạnh nổi trội như:
- Hệ thống tổ chức khuyến nông từ Trung ương đến địa phương đã được củng cố và ngày càng hoàn thiện.
- Hoạt động khuyến nông đã bám sát các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp trọng điểm, chuyển giao thành công nhiều tiến bộ kỹ thuật mới, góp phần tăng nhanh sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp trên cả nước.
- Khuyến nông đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình độ kỹ thuật và kỹ năng tổ chức sản xuất, quản lý để tăng thu nhập, cải thiện đời sống người nông dân và góp phần quan trọng trong công cuộc "xoá đói giảm nghèo".
- Cung cấp kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về sản xuất NN đến với người nông dân.
- Bước đầu tạo ra mối liên kết giữa khuyến nông nhà nước và các tổ chức hoạt động khuyến nông khác.
- Nhạy bén trước sự thay đổi về kinh tế xã hội để đáp ứng nhu cầu và ưu tiên trong sản xuất nông nghiệp của địa phương.
* Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì khuyến nông - khuyến ngư Việt Nam vẫn còn một số tồn tại như sau:
- Nguồn nhân lực còn thiếu và hạn chế về năng lực.
- Hoạt động khuyến nông chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhóm đối tượng nông dân khác nhau
- Nội dung và phương pháp đào tạo, tập huấn chưa phù hợp với nhu cầu thức tế đòi hỏi ngày càng cao của người dân.
- Công tác thông tin tuyên truyền còn chậm đổi mới về chất lượng, nội dung và tính thời sự.