Đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng trong công tác thẩm định tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng công thương Việt Nam - chi nhánh nam Thừa Thiên Huế - 6


b/ Trường hợp khoản vay vượt thẩm quyền của người có thẩm quyền quyết định cho vay:

Trường hợp đề xuất cho vay, chuyển toàn bộ hồ sơ lên Trụ sở chính (bao gồm các hồ sơ trên, tờ trình của Chi nhánh, Biên bản họp Hội đồng tín dụng cơ sở).

Ví dụ:

Sau khi cán bộ thẩm định của phòng QLRR&NCVĐ thẩm định lại năng lực tài chính, phương án, mục đích vay vốn và thẩm định tài sản đảm bảo thì cán bộ thẩm định sẽ lập Tờ trình thẩm định trình lãnh đạo phòng xem xét, kiểm tra, ký duyệt đưa ra ý kiến chấp nhận cho vay hay không sau đó sẽ trình Giám đốc chi nhánh quyết định (nếu thuộc thẩm quyền của Giám đốc Chi nhánh). Giám đốc hoặc cấp có thẩm quyền sẽ căn cứ vào Tờ trình thẩm định, nhất là ý kiến của Lãnh đạo Phòng QLRR&NCVĐ về tình hình tài chính của Công ty A, Phương án trả nợ, mục đích vay vốn hợp lý minh bạch không để xét duyệt khoản vay. Nếu không Giám đốc chi nhánh không đủ thẩm quyền sẽ phải lập Hội đồng tín dung cơ sở để xet xét, xét duyệt cho vay.

Bước 5: Soạn thảo Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng bảo đảm, ký hợp đồng, làm thủ tục giao nhận tài sản bảo đảm và nhập các thông tin về khoản vay, kiểm tra giám sát việc nhập thông tin trên hệ thống INCAS.

a/ Soạn thảo Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng bảo đảm, kiểm soát, ký kết hợp

đồng, làm thủ tục giao nhận tài sản bảo đảm:

Người thực hiện: CBTD, Cán bộ pháp chế, Lãnh đạo Phòng khách hàng doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 62 trang tài liệu này.

Khi khoản vay được người có thẩm quyền quyết định cho vay, CBTD thỏa thuận với khách hàng về các điều khoản của Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng bảo đảm.

Tại khâu này, việc lập Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng bảo đảm rất quan trọng, chỉ một sơ suất nhỏ có thể dẫn đến tổn thất cho Chi nhánh khi có sự tranh chấp pháp luật. Do vậy trước khi trình người có thẩm quyền ký hợp đồng, CBTD chuyển dự thảo hợp đồng cho Bộ phận pháp chế của Phòng QLRR&NCVĐ để hoàn thiện hợp đồng.

Đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng trong công tác thẩm định tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng công thương Việt Nam - chi nhánh nam Thừa Thiên Huế - 6

Thực hiện việc công chứng Hợp đồng bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm đối với Hợp đồng bảo đảm, CBTD cùng với khách hàng đi công chứng Hợp đồng bảo đảm để đảm bảo không xảy ra rủi ro.


b/ Nhập các thông tin về khoản vay, kiểm tra giám sát việc nhập thông tin trên hệ thống INCAS

- CBTD nhập dữ liệu vào hệ thống máy tính theo quy trình “Xử lý nghiệp vụ cho vay trên hệ thống INCAS”.

- Lãnh đạo Phòng khách hàng doanh nghiệp, cán bộ và lãnh đạo phòng

QLRR&NCVĐ giám sát việc nhật dữ liệu này.


Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Hoàng Thị Kim Thoa


Sơ đồ 2.3: Quy trình thẩm định tín dụng cho khách hàng (trích trong quy trình cấp tín dụng)

Bước KH Phòng KH Phòng QLRR GDV/ KT Cấp có thẩm Quyền tại CN


(Nguồn: Phòng quản lý rủi ro và nợ có vấn đề)



CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT RỦI RO TRONG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CHO VAY

TẠI VIETINBANK – NAM THỪA THIÊN HUẾ


3.1. Đánh giá việc kiểm soát rủi ro tín dụng trong công tác thẩm định tín dụng tại NH Vietinbank CN Nam Thừa Thiên Huế

3.1.1. Kết quả đạt được

Hoạt động kiểm soát trong công tác thẩm định luôn được ban lãnh đạo của Vietinbank Trung ương và cả ban lãnh đạo Chi nhánh chú ý quan tâm xây dựng và củng cố. Đây chính là cơ sở quan trọng nhằm thực hiện tốt công tác thẩm định tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng, từ đó tăng hiệu quả kinh doanh, giữ vững và nâng cao vị thế của Chi nhánh trên địa bàn.

Thứ nhất, Chi nhánh đã áp dụng một quy trình thẩm định rõ ràng và có hiệu quả cao:

Ban lãnh đạo luôn tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát, thường xuyên đôn đốc nhân viên thực hiện chính sách thẩm định cho vay của Chi nhánh nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Các chính sách, quy định thẩm định cho vay mà Chi nhánh áp dụng được Ngân hàng Công thương Việt Nam ban hành dựa trên quy định của NHNN, đã cho thấy sự chặt chẽ, thống nhất và hiệu quả.

Chính sách, quy định tín dụng mà Chi nhánh thực hiện trong những năm qua phù hợp với điều kiện hoạt động và phát triển. Hệ thống chính sách thẩm định tín dụng bao gồm những quy định cụ thể, chi tiết, đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động thẩm định. Toàn thể nhân viên trong Ngân hàng đều phải tuân thủ quy định về thẩm định cho vay để đảm bảo an toàn tín dụng, đảm bảo tiền vay, lãi suất cho vay mà NHNN và Ngân hàng Công thương Việt Nam đã đề ra, xem đó là cơ sở để thực hiện việc thẩm định tín dụng an toàn và hiệu quả.

Thứ hai, ban lãnh đạo Chi nhánh đã tạo ra một môi trường kiểm soát minh bạch và có hiệu quả cao:

Bộ máy tổ chức trong quy trình cấp tín dụng nói chung và trong công tác thẩm

định tín dụng nói riêng được thiết kế hợp lý và hoạt động đạt hiệu quả cao. Các bộ


phận trong bộ máy tổ chức đều được phân chia chức năng, nhiệm vụ cụ thể và luôn giám sát lẫn nhau trong hoạt động. Đặc biệt, phòng QLRR&NCVĐ có vai trò quan trọng trong việc quản lý tín dụng tại Chi nhánh, kịp thời phát hiện những sai sót do khách quan hoặc chủ quan gây ra.

Chính sách nhân sự được ban lãnh đạo đặt lên hàng đầu. Đội ngũ cán bộ nhân viên của Chi nhánh có nhiều kinh nghiệm, trình độ chuyên môn và được tập huấn nghiệp vụ định kỳ, với 52 nhân viên có bằng đại học và trên đại học trong tổng số 58 nhân viên (năm 2012). Ban lãnh đạo đảm bảo cho nhân viên có một công việc ổn định, từ đó nhân viên yên tâm công tác, cống hiến hết mình cho Chi nhánh. Thêm vào đó, ban lãnh đạo chi nhánh còn đưa ra những chuẩn mực đạo đức để cán bộ nhân viên hướng đến và thực hiện. Kịp thời khen thưởng đối với những cá nhân xuất sắc có nhiều đóng góp chi Chi nhánh. Chính nhờ cơ chế thưởng phạt hợp lý tại Chi nhánh đã giúp nhân viên làm việc có trách nhiệm.

Việc kiểm soát rủi ro đối với hoạt động thẩm định tín dụng tại Chi nhánh rất chặt chẽ vì được 2 cấp tham gia kiểm tra, kiểm soát. Cấp thứ nhất trong Chi nhánh là Phòng QLRR&NCVĐ thực hiện kiểm tra kiểm soát ngay trong quy trình thẩm định tín dụng và kiểm tra trước trong và sau quá trình cho vay. Cấp thứ 2, chịu sự chỉ đạo của Trụ sở chính Ngân hàng Công thương Việt Nam là Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ thực hiện kiểm tra độc lập sau khi thẩm định và cho vay tại Chi nhánh đối với các khoản vay lớn, các khoản vay mà ngân hàng Công thương Việt Nam ra quyết định Chi nhánh thẩm định, giải ngân.

Hệ thống thông tin hiện đại với mô hình quản lý tập trung và giao dịch trực tiếp, áp dụng công nghệ thông tin đồng bộ đã giúp cho công tác kiểm soát kịp thời, chặt chẽ hơn.

Thứ ba, thủ tục kiểm soát áp dụng cho công tác thẩm định cho vay tại Chi nhánh khá chặt chẽ:

Chi nhánh tuân thủ thực hiện các quy trình thẩm định, kiểm tra, giám sát quá trình thẩm định vay vốn và các quy trình khác liên quan đến hoạt động thẩm định tín dụng. Từ đó mọi cán bộ thực hiện đây đủ các bước theo hướng dẫn của quy trình. Quy trình chỉ rõ vai trò, nhiệm vụ và sự phối hợp hoạt động giữa các cá nhân và phòng ban.


Nhờ áp dụng thủ tục kiểm soát chặt chẽ trong hoạt động thẩm định tín dụng, thực hiện kiểm tra kiểm soát ngay trong quy trình tín dụng nên đã hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, cụ thể trong năm 2012 các khoản nợ xấu, nợ quá hạn chỉ chiếm 0,002% trong tổng dư nợ của nhóm khách hàng doanh nghiệp.

- So sánh với nội dung thẩm định tín dụng của một số ngân hàng khác như Ngân hàng TMCP Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Hàng hải Maritime, thì Vietinbank Chi nhánh Nam Thừa Thiên Huế đã tiếp cận hết được các khía cạnh, yếu tố đánh giá về khả năng tài chính và phương án vay vốn giống như các bước trong quy trình tín dụng chung. Có thể trình độ chuyên môn khá cao, ý thức chấp hành hoặc do điều kiện khách quan mà khi tham gia thẩm định tình hình tài chính và các đề xuất kinh doanh, các CBTD không những chú trọng vào tính toán các hệ số tài chính để đánh giá khả năng trả nợ của KH, mà còn chú trọng vào những chỉ tiêu khác có thể đánh giá tình hình chi trả hiệu quả hơn, như phân tích phương án hoàn trả nợ vay, tình hình tài chính của doanh nghiệp, mục đích vay vốn phải hợp lý… Điều này có thể dẫn đến quyết định cho vay khá chính xác để giảm thiểu rủi ro cho Chi nhánh. Hiện tại, Chi nhánh đã chú trọng cho vay đúng mục đích, đúng

- Mặc dù việc đi thực tế tại cơ sở sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp gặp khó khăn nhưng Chi nhánh đã rất chú trọng đi thực tế: Theo quy trình thẩm định tín dụng, sau khi xem xét hồ sơ khách hàng, mỗi CBTD đều phải tự mình đi thực tế đến tận nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn để thu thập, tìm hiểu về nhà xưởng thiết bị, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, thực trạng tài sản đảm bảo và các thông tin khác nhằm phân tích, đánh giá về khách hàng và hiệu quả của phương án xin vay vốn của họ. Điều này rất khó khăn, nhất là đối với các khách hàng ở xa Chi nhánh bởi CBTD không đủ thời gian và nguồn thông tin tin cậy để phân tích, nắm bắt hoặc dễ rơi vào sự sắp đặt trước của những khách hàng thiếu trung thực. Đồng thời, chi phí cho một lần thẩm định như vậy là khá lớn so với dự kiến tiền lãi sẽ thu được nếu khoản vay được chấp nhận, bao gồm chi phí xăng xe đi lại, công tác phí, chi phí lưu trú cho cán bộ làm nhiệm vụ thẩm định, xét duyệt cho vay. Đây sẽ là con số không nhỏ nếu tính gộp cả việc đi lại thẩm định hàng ngàn món vay phát sinh hằng năm tại Chi nhánh Nam Thừa Thiên Huế.


3.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân

3.1.2.1. Những tồn tại

Mặc dù hệ thống kiểm soát hoạt động thẩm định cho vay của Chi nhánh đã mang lại những hiệu quả nhất định, song để đáp ứng được với yêu cầu mới, hoạt động thẩm định tín dụng của Chi nhánh trong những năm qua cũng gặp phải không ít khó khăn và hạn chế nên khắc phục:

- Về nhân sự: Một bộ phận đội ngũ cán bộ có tuổi đời trung bình khá cao làm hạn chế tính năng động, hạn chế khả năng đáp ứng công nghệ mới. Nhân viên mới còn thiếu kinh nghiệm, đào tạo tại chỗ còn chưa bài bản. Số lượng cán bộ thẩm định tín dụng và cán bộ quản lý rủi ro tín dụng vẫn còn mỏng so với khối lượng công việc phải thực hiện, dẫn đến áp lực trong công việc khá lớn.

- Bộ phận trực tiếp kiểm tra kiểm soát:

+ Phòng QLRR&NCVĐ có thể bị chi phối làm giảm tính độc lập và khách quan trong việc xem xét, kiểm tra và thẩm định các khoản tín dụng. Phòng QLRR&NVCĐ mặc dù có ý kiến độc lập trong việc cấp tín dụng nhưng vẫn có hạn chế là chịu ảnh hưởng bởi kết quả hoạt động của Chi nhánh.

+ Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ trên thực tế chưa ngăn ngừa được rủi ro tín dụng phát sinh, chỉ mới thực hiện kiểm tra sau khi cho vay đối với các khoản vay đặc thù. Và bên cạnh đó, Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ quản lý cả cụm 14 gồm 4 Chi nhánh lớn của 3 tỉnh là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế nên nên trách nhiệm kiểm tra giám sát lại khá nặng nề và có thể không kịp thời.

- Để rút ngắn thời gian trong việc cấp tín dụng và áp lực hiệu quản công việc, CBTD có thể thực hiện chưa đúng theo quy trình thẩm định. Chẳng hạn nhận hồ sơ của khách hàng thiếu vì mối quan hệ với khách hàng, thành tích công việc nên chấp nhận; chưa về trực tiếp cơ sở doanh nghiệp để thẩm định vì thiếu thời gian. Do đó sẽ ảnh hưởng đến quản lý chất lượng theo ISO của Ngân hàng Công thương về thủ tục, hồ sơ.

- Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm hạn chế rủi ro hiệu quả chưa cao. Hiện nay, danh mục đầu tư của Chi nhánh tập trung vào các ngành xây dựng, thương mại, khách sạn và nhà hàng… Mặc dù Chi nhánh đã thực hiện phân tán rủi ro bằng


cách đa dạng hóa đầu tư vào nhiều ngành kinh tế, nhưng tỷ trọng các ngành khác còn thấp, mục đích phân tán rủi ro đạt hiệu quả chưa cao.

Cụ thể đi sâu vào trong công tác thẩm định tại Chi nhánh:

- Xác định giá trị tài sản đảm bảo chưa thống nhất và chính xác: Đây là một trong những vấn đề các cán bộ thẩm định hay gặp vướng mắc nhiều nhất. Ngoài việc phải căn cứ vào rất nhiều nguồn luật điều chỉnh như Luật Dân sự, Luật Công chứng… gây phức tạp trong việc xác định cơ sở pháp lý của tài sản đảm bảo, các cán bộ thẩm định cũng gặp khó khăn trong việc định giá khi mà Khung giá Nhà nước chênh lệch rất nhiều so với giá thị trường, chưa thực sự chuẩn xác gây thiệt hại hoặc cho Ngân hàng hoặc cho doanh nghiệp. Đối với quy mô của Chi nhánh hiện tại, việc định giá TSĐB là phải do một bộ phận thẩm định độc lập để định giá. Và tại Chi nhánh đã thống nhất định giá theo Khung giá nhà nước quy định nhưng có những tài sản đảm bảo không có khung giá nhà nước nên phải nhiều khi việc định giá theo cảm tính.

- Hạn chế trong việc xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ vay: Khi mang hồ sơ đến xin vay, doanh nghiệp nào cũng tìm cách đảm bảo khả năng thanh toán nợ một cách chắc chắn nhất bằng các tài sản đảm bảo nhằm tạo lòng tin đối với Ngân hàng. Trong trường hợp con nợ không có khả năng hoàn trả, Ngân hàng sẽ dùng đến nguồn trả nợ thứ hai là các tài sản được đem ra làm vật bảo đảm cho món vay. Tuy nhiên việc xử lý số tài sản này không hề đơn giản, ngược lại còn đem đến cho Ngân hàng nhiều phiền toái, đặc biệt là với những khoản vay có biện pháp bảo đảm là thế chấp bất động sản. Thực tế cho thấy việc xử lý tài sản thế chấp không phải lúc nào cũng tiến hành được, hoặc đã xử lý nhưng tiến trình bàn giao quá chậm, dẫn đến hư hỏng, xuống cấp. Nếu muốn bán thì Ngân hàng phải sửa chữa, đầu tư thêm, làm tăng chi phí hoạt động của Ngân hàng, chưa kể đến những tài sản này bị vướng mắc về thủ tục, hồ sơ… Mặc dù Ngân hàng đã có quy trình, thủ tục khá chặt chẽ trong việc cho vay có tài sản thế chấp và về mặt pháp lý, Ngân hàng thường “nắm đằng chuôi” (mọi giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đều do Ngân hàng nắm giữ), tuy nhiên Ngân hàng vẫn chịu thua thiệt khi phát sinh tranh chấp trên thực tế do phải chia sẻ quyền lợi với các nguyên đơn khác, đồng thời tốn nhiều thời gian, chi phí trong việc kiện tụng, chưa kể trường hợp con nợ bỏ trốn hoặc chây ỳ, không hợp tác trong việc xử lý tài sản. Do đó tại Chi


nhánh Nam Thừa Thiên Huế, đã thay đổi tư duy cho vay, không dựa hoàn toàn vào tài sản đảm bảo, phải thẩm định kỹ mục đích vay vốn, nguồn trả nợ để cho vay đúng mục đích, nguồn trả nợ đầy đủ.

3.1.2.2 Nguyên nhân

Chủ quan

- Chi nhánh chưa có công cụ chuyên biệt, mô hình riêng để đánh giá xác suất rủi ro và đo lường tổn thất dự kiến. Bên cạnh đó chỉ tiêu, số liệu thống kê cần thiết để đánh giá cũng chưa đầy đủ. Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của khách hàng vay vốn chủ yếu dựa trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Tuy nhiện tính xác thực của các thông tin nay không cao khi khách hàng chưa được kiểm toán. Do đó, những rủi ro trong công tác thẩm định là điều khó tránh khỏi.

- Sự hợp tác giữa các ngân hàng trên địa bàn vẫn còn thiếu. Đối với dự án đồng tài trợ, nếu khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng thì tất cả các ngân hàng đều gặp rủi ro không thu hồi được nợ. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan, Tòa án, Viện Kiểm sát…để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp.

Khách quan:

- Điều kiện tự nhiên của tỉnh nhà không thuận lợi, chịu nhiều thiên tai dịch họa, bão lụt thường xuyên xảy ra gây thiệt hại nặng nề cho người dân và nền kinh tế tỉnh nhà, gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, nguy cơ rủi ro cao đối với các khoản tín dụng tại Chi nhánh.

- Cơ chế chính sách thay đổi: Nguyên nhân này không từ phía người vay và người cho vay mà do cơ chế chính sách thay đổi, điều này mang lại cho ngân hàng và khách hàng nhiều rủi ro.

- Môi trường pháp lý:

+ Luật các tổ chức tín dụng mặc dù ra đời rất lâu nhưng vẫn chưa hoàn thiện và chưa bắt kịp các biến đổi nhanh của xu thế như sự thay đổi của Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Mặc dù các hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bởi


Luật các tổ chức tín dụng nhưng các văn bản dưới luật của các ngân hang và các ngành vẫn chưa đồng bộ.

+ Nguyên nhân của việc xử lý tài sản bảo đảm mất nhiều thời gian và chi phí. Trong các điều khoản của Hợp đồng bảo đảm, Chi nhánh luôn ràng buộc điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được quyền xử lý toàn bộ tài sản bảo đảm để thu hồi nợ”. Tuy nhiên trên thực tế Chi nhánh phải chuyển hồ sơ khởi kiện ra tòa nếu không thỏa thuận được với khách. Nếu tòa án phán quyết thì Chi nhánh vẫn con gặp nhiều khó khăn vì khâu thi hành án còn chậm. Bên cạnh đó là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ qua thẩm định, cơ quan giám định, cơ quan bán đấu giá… Thời gian từ lúc khởi kiện đến khi cưỡng chế, thi hành án mất khá nhiều thời gian.

- Thông tin CIC cung cấp còn nghèo nàn, chưa có thông tin phi tài chính, thông tin về khả năng quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp; chỉ cung cấp thông tin khi được tổ chức tín dụng yêu cầu, chưa chủ động trong việc thông báo những dự báo rủi ro tín dụng.

- Những nguyên nhân xuất phát từ khách hàng như: kinh doanh thua lỗ, hoạt động và quả lý yếu kém; che dấu thực trạng, báo cáo không trung thực; sử dụng vốn sai mục đích và một số khách hàng cố ý lừa đảo…

Từ kết quả đạt được và hạn chế trên, nhận thức được vai trò, ý nghĩa của hệ thống kiểm soát trong công tác thẩm định cho vay, Vietinbank Nam Thừa Thiên Huế đã không ngừng xây dựng và kiện toàn hệ thống kiểm soát của mình. Trong quá trình hoạt động kinh doanh luôn biến động. Chi nhánh luôn đổi mới và cải tiến khâu tổ chức bộ máy, nhân sự và hệ thống chính sách để đáp ứng kịp thời nhu cầu thay đổi của môi trường kinh doanh. Tốc độ phát triển kinh doanh làm nảy sinh nhiều vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm soát chưa đáp ứng kịp thời. Do đó, để nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ cần có biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý tại Chi nhánh.


3.2 Một số giải pháp góp phần hoàn thiện kiểm soát rủi ro trong công tác thẩm định tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại NHTMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Nam Thừa Thiên Huế

Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thẩm định tín dụng, Ban Giám đốc của Chi nhánh luôn định hướng nhiệm vụ quản lý và kiểm soát sao cho nghiệp vụ này ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng. Cụ thể, yêu cầu hoàn thiện quy trình cho vay và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng là công việc được Ban Giám đốc đặt lên hàng đầu. Từ yêu cầu đã đặt ra, kết hợp với điều kiện hiện tại, nội bộ Ban lãnh đạo Chi nhánh đã có những biện pháp và định hướng phát triển riêng nhằm thúc đẩy quá trình lưu thông vốn mà vẫn đảm bảo được chất lượng thẩm định tín dụng. Tuy vậy, em cũng có một vài kiến nghị và đề xuất như sau:

3.2.1 Nâng cao chất lượng nguồn thông tin

Từ thực tế Chi nhánh gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin của khách hàng, ta thấy rằng, nếu không có lượng thông tin đầy đủ và chất lượng thì việc thẩm định tín dụng sẽ không thể thực hiện được, hoặc chất lượng thẩm định sẽ không đạt yêu cầu, bởi các CBTD sẽ tiến hành công việc một cách chủ quan, cảm tính, gây ra rủi ro tín dụng. Do vậy, việc đánh giá đúng tầm quan trọng của thông tin tín dụng sẽ giúp khắc phục tình trạng thiếu thông tin nhằm lành mạnh hóa hệ thống Ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của Vietinbank chi nhánh Nam Thừa Thiên Huế. Mặt khác, quan hệ tín dụng chỉ hình thành dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng. Các thông tin từ phía KH nhiều khi lại thiếu đầy đủ và chuẩn xác. Để các khoản cho vay an toàn và hiệu quả, thông tin phải được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau như: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, hồ sơ khách hàng, các cơ quan chức năng có liên quan (như cơ quan thuế, Viện kiểm soát…), trực tiếp phỏng vấn khách hàng… nhằm phục vụ kịp thời cho các giai đoạn của quy trình tín dụng. Tất nhiên để có được những thông tin chính xác và đầy đủ, Ngân hàng phải biết cách tạo ra thông tin cho riêng mình. Thay vì chỉ nhận thông tin tín dụng từ phía khách hàng, Chi nhánh nên chủ động tìm kiếm, làm chủ thông tin để có biện pháp xử lý, khai thác thông tin một cách hiệu quả nhất phục vụ cho toàn bộ quy trình tín dụng. Để đạt hiệu quả cao nhất, Ngân hàng Công thương có thể thiết lập một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ thu


thập, phân tích, lưu trữ thông tin về khách hàng, thông tin thị trường, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng... hoặc liên kết chặt chẽ với trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Đây sẽ là căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn và thể hiện tính chuyên nghiệp của Chi nhánh.

3.2.2 Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay

Các Ngân hàng thường tập trung chủ yếu cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay, làm ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của các cán bộ tín dụng. Vì vậy việc kiểm soát sau khi vay sẽ giúp ngân hàng phát hiện những dấu hiệu mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp để đưa ra biện pháp xử lý kịp thời. Ngoài ra, cần phải xét đến những trường hợp doanh nghiệp cố tình lừa đảo Ngân hàng, sử dụng vốn vay vào mục đích sai trái, nhiều rủi ro, gây thiệt hại cho Ngân hàng. Do đó kiểm soát sau khi cho vay được coi là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức, giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng hiệu quả và đúng mục đích.

Kiểm tra nội bộ có ưu thế hơn thanh tra NHNN ở tính kịp thời và nhanh chóng khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên. Do vậy, Phòng Kiểm tra kiểm soát cần thực hiện tốt hơn nữa chức năng của mình nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của Chi nhánh như:

- Rà soát chặt chẽ các khoản vay, thực hiện những biện pháp hạn chế Nợ quá hạn, thu hồi Nợ xấu; tăng cường giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của khách hàng là doanh nghiệp.

- Cần cử cán bộ theo dõi thường xuyên khoản vay của doanh nghiệp bằng cách xuống cơ sở kinh doanh kiểm tra định kỳ để chắc chắn rằng doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết ban đầu.

- Theo dõi và đánh giá tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Rõ ràng, việc theo dõi sát sao tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giúp cho các công tác kiểm soát rủi ro tốt hơn trong khâu thu nợ.

Xem tất cả 62 trang.

Ngày đăng: 20/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí