các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại Điều 10, thuật ngữ du lịch được hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [17, tr.16].
Cho dù có định nghĩa dưới góc độ nào thì các nhà khoa học và học giả đều nhận biết được rằng du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội. Du lịch không chỉ là một ngành kinh tế tổng hợp mang lại lợi nhuận cao, mà nó còn là một hiện tượng xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn. Ngành du lịch đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo anh sinh xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường và giữ vững an ninh, quốc phòng. Chính vì vậy toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển. Ngay nay du lịch phát triển mạnh mẽ ở khắp mọi nơi trên thế giới. Thực tế hoạt động du lịch ở nhiều nước chẳng những đã đem lại lợi ích kinh tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội.
1.1.2. Vai trò của du lịch trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Ngày nay du lịch phát triển mạnh mẽ ở khắp mọi nơi trên thế giới. Du lịch không chỉ giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn có tác động ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
* Vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế.
Trong những năm trở lại đây, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Theo T chức Du lịch thế giới (UN - WTO), năm 2000, khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới đạt 698 triệu lượt khách, tăng 7,4% so với năm 1999, thu nhập du lịch đạt 476 tỷ USD, tương đương 6,5% tổng sản phẩm quốc dân thế giới. Du lịch là ngành tạo nhiều việc làm và hiện thu hút khoảng 220 triệu lao động trực tiếp, chiếm 10,6% lực lượng lao động thế giới. UN - WTO dự báo, năm 2010
lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới ước lên tới 1.006 triệu lượt khách, thu nhập từ du lịch đạt 900 tỷ USD và ngành du lịch tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Do lợi ích nhiều mặt mà du lịch mang lại nên nhiều nước đã tận dụng tiềm năng lợi thế của mình để phát triển du lịch tăng đáng kể nguồn thu ngoại tệ, tạo việc làm, thúc đẩy sản xuất trong nước, đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội [17, tr.337]. Theo báo cáo của Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (World Travel Tourism Council - WTTC) năm 2007 ngành du lịch thế giới đã đạt một kỷ lục với 898 triệu du khách và đến năm 2020 con số này có thể là 1,6 tỷ du khách với doanh thu ước đạt xấp xỉ 2000 tỷ USD.
Có thể bạn quan tâm!
- Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch 1992 - 2008 - 1
- Những Lợi Thế Và Tiềm Năng Phát Triển Tài Nguyên Du Lịch Của Tỉnh Ninh Bình
- Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch 1992 - 2008 - 4
- Đường Lối Chính Sách Phát Triển Du Lịch Của Đảng Và Nhà Nước Trong Thời Kỳ Đổi Mới (1986 - 2008)
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
Hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và của đất nước. Nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã rất thành công trong việc đưa du lịch thành kinh tế mũi nhọn đóng góp rất lớn vào việc phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Năm 1992, năm du lịch Đông Nam Á kết thúc thành công với lượng khách đạt kỷ lục 21,859 triệu lượt khách du lịch quốc tế, chiếm 4,6% tổng số khách du lịch toàn thế giới. Năm 2000 số lượng khách quốc tế đến ASEAN tăng 14,35% năm 2001 lần đầu tiên thu hút được 40 triệu lượt khách du lịch quốc tế, nhưng đến năm 2004 con số này đã là 50 triệu, và năm 2006 là khoảng 60 triệu khách [22, tr.63]. Trong đó phải kể đến các quốc gia như Thái Lan, Malaysia, Singapore, chính nhờ du lịch mà các nước này nhanh chóng vượt qua khủng hoảng tài chính ở những năm cuối thế kỷ XX, và nhanh chóng vực dậy nền kinh tế. Du lịch Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực. Năm 1990, nước ta đón khoảng 250.000 du khách quốc tế thì năm 2008 con số này lên tới 4,2 triệu lượt người, thu nhập từ ngành du lịch đạt gần 4 tỷ USD. Đến nay, du lịch đóng góp khoảng 5% GDP quốc gia với khoảng 1 triệu lao động làm việc trong ngành này.
Hoạt động du lịch một tập hợp những sức mạnh liên kết. Dẫu còn là một ngành kinh tế mới, nhưng với những đặc trưng của mình, du lịch có thể tạo ra sức bật lớn, lan tỏa nhanh. Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng GDP của các ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Hiệu quả của hoạt động du lịch
ngày càng rõ nét. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và nhiều hộ dân, nhiều địa phương giàu lên nhờ du lịch, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và của địa phương.
Sự phát triển đúng đắn của các hoạt động du lịch sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Bởi vì du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, không thể phát triển du lịch trong điều kiện các ngành kinh tế kỹ thuật liên quan như: công nghiệp, thương mại, giao thông, bưu điện, ngân hàng cung ứng điện nước… ở trình độ phát triển thấp. Bởi lý do chính những ngành này trực tiếp cung cấp các dịch vụ chủ yếu cho hoạt động du lịch.
Như vậy, đối với phát triển kinh tế, du lịch hiện nay được coi là ngành công nghiệp không khói chiếm vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển du lịch có tác dụng làm thay đổi bộ mặt kinh tế quốc gia, vùng lãnh thổ. Do đó, nhiều nước trên thế giới hiện nay đã coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn để phát triển đất nước.
* Vai trò của du lịch đối với đời sống văn hóa - xã hội.
Vai trò của du lịch không phải chỉ có đến lĩnh vực kinh tế mà còn có tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội như:
Đối với văn hóa - xã hội, hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích và nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và địa phương và cộng đồng dân cư trong việc giữ gìn, phát triển di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hóa trong chuyến đi của du khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý khôi phục, bảo vệ các di tích, duy trì các lễ hội, làng nghề… Cho nên nhiều lễ hội dân gian được khôi phục, tổ chức và dần dần đi vào nền nếp và lành mạnh, phát huy được thuần phong mỹ tục. Nhiều làng nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển, tạo thêm các điểm du lịch hấp dẫn và sản xuất hàng lưu niệm, thủ công mỹ nghệ bán cho khách du lịch, góp phần tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp cho các tầng lớp nhân dân. Và đặc biệt du lịch giúp cho việc giao lưu văn hóa
giữa các cộng đồng các dân tộc khác nhau, giúp cho sự trao đổi tiếp thu nét văn hóa mới, độc đáo, tiến bộ, loại bỏ dần những nét văn hóa cổ hủ, lạc hậu. Nhờ hoạt động du lịch mà cuộc sống cộng đồng trở nên sôi động hơn, các nền văn hóa có điều kiện giao lưu hòa nhập với nhau, giúp cho sự trao đổi tiếp thu nền văn hóa mới, tiến bộ, đời sống văn hóa tinh thần của con người trở lên phong phú hơn.
Đối với môi trường, du lịch giúp con người hiểu biết sâu sắc thêm về tự nhiên, thấy được giá trị của đời sống thiên nhiên đối với con người. Điều này có nghĩa là bằng thực tiễn phong phú, du lịch sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường, một vấn đề toàn thế giới hết sức quan tâm. Nhu cầu du lịch nghỉ ngơi tại những khu vực có nhiều cảnh quan thiên nhiên sẽ tạo sự kích thích cho con người trong việc tôn tạo, bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên.
Đối với vấn đề an ninh chính trị, du lịch đã góp phần mở rộng giao lưu giữa các vùng trong nước và ngoài nước. Là cầu nối hòa bình giữa dân tộc trên thế giới. Hoạt động du lịch giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, giúp hiểu biết về giá trị văn hóa, con người của các dân tộc khác nhau. Nhờ đó thì mọi vấn đề mâu thuẫn đều có thể giải quyết bằng con đường hòa bình, hợp tác. Góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
* Vai trò của du lịch trong quá trình phát triển kinh - xã hội của tỉnh Ninh Bình.
Cùng với sự quan tâm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành du lịch luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức, ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu của cách mạng. Trong quá trình đổi mới đất nước, du lịch nước ta đã đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất lượng, dần khảng định vai trò, vị trí của mình là ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Ninh Bình là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, có tài nguyên du lịch phong phú bao gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Trong những năm gần đây ngành du lịch Ninh Bình đã có nhiều bước chuyển
biến mới, khởi sắc của một ngành kinh tế năng động đã và đang góp phần làm thay đổi diện mạo đời sống kinh tế, xã hội của tỉnh. Ý thức được vai trò của du lịch, Ninh Bình là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước thực hiện xây dựng “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 1995 - 2010” làm cơ sở cho việc quản lý và phát triển ngành kinh tế đầy tiềm năng này.
Trong thực tế phát triển du lịch Ninh Bình trong những năm qua đã cho thấy du lịch ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tổng doanh thu của ngành du lịch tỉnh Ninh Bình trong những năm qua đã có sự tăng trưởng đáng kể. Nếu như năm 1995 tổng doanh thu của toàn ngành du lịch mới đạt 8,55 tỷ đồng thì đến năm 2000 đã tăng lên gấp 3,27 lần để đạt mức 28 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 1995 - 2000 là 26,78%/năm. Đến năm 2005 (tức là 10 năm thực hiện quy hoạch), doanh thu du lịch đã đạt 63,18 tỷ đồng tăng gấp 7,39 lần so với khi bắt đầu thực hiện quy hoạch, đến năm 2008 doanh thu đạt con số 162 tỷ đồng. Doanh thu du lịch tăng, đóp góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Năm 1995 nộp ngân sách chỉ đạt 1,5 tỷ đồng, đến năm 2005 nộp ngân sách đạt 7,46 tỷ đồng, tăng gần 5 lần so với năm 1995. Con số này tăng lên 16,5 tỷ đồng vào năm 2008 [70].
Bên cạnh vai trò về kinh tế, phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình còn có nhiều ý nghĩa về mặt xã hội như: góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Thúc đẩy việc khôi phục các lễ hội, ngành nghề truyền thống, nhận thức của người dân trong vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của tỉnh. Du lịch Ninh Bình trong vài năm trở lại đây đã phát huy được những lợi thế, tiềm năng và có bước phát triển vượt bậc, đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân. Năm 2008, Ninh Bình đang tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động văn hóa - xã hội để chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức kỷ niệm 1000 năm Cố đô Hoa Lư - Thăng Long, Hà Nội, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, xây dựng Ninh Bình ngày càng giàu đẹp.
1.2. Những lợi thế và tiềm năng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Ninh Bình
1.2.1. Đặc điểm lịch sử, địa lý tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình
* Đặc điểm lịch sử.
Ninh Bình là một vùng đất có quá trình hình thành và phát triển với nhiều nét đặc thù hấp dẫn xuyên suốt chiều dài lịch sử của địa phương. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện xương, răng người hóa thạch ở hang Thang Lung (nay thuộc phường Nam Sơn, thị xã Tam Điệp), có niên đại cách chúng ta từ 3 vạn năm thuộc thời Hậu kỳ đồ đá cũ. Động Người xưa ở Vườn quốc gia Cúc Phương có 3 ngôi mộ cổ của người nguyên thủy sống cách ngày nay từ 7000 năm đến 8000 năm, thuộc Văn hóa Hòa Bình trong thời kỳ đồ đá mới [7, tr.9]. Trong số 6 chiếc trống đồng tìm thấy ở Ninh Bình có 2 trống đồng loại I, hiện vật tiêu biểu của nền văn minh sông Hồng. Điều đó chứng tỏ Ninh Bình là một trong những địa bàn quan trọng của nền văn minh buổi đầu dựng nước.
Đến những năm đầu thế kỷ X, từ làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là thôn Văn Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn), Đinh Công Chứ đã vào Châu Ái (Thanh Hóa) tham gia cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ và được giao cai quản Châu Hoan (nay thuộc Nghệ An).
Thời Ngô Quyền, Đinh Công Chứ vẫn làm Thứ sử Châu Hoan. Sau khi ông mất, con của Đinh Công Chứ là Đinh Bộ Lĩnh đã theo mẹ là Đàm Thị (người vợ hai của Đinh Công Chứ) bỏ Châu Hoan về động Hoa Lư (là Thung Lau và vùng đất quanh đó, nay thuộc thôn Mai Phương, xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn), nương thân với chú ruột là Đinh Thúc Dự.
Tại động Hoa Lư, từ cờ lau tập trận, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp yên loạn 12 sứ quân, non song thu về một mối, đất nước trở lại thống nhất. Năm 986, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Vua Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư ngày nay), là vùng non kỳ thú nhưng hiểm trở để làm kinh đô - “Kinh đô đá”. Tại đây, ông cho xây dựng cung điện, đặt triều nghi, đắp thành, đào hào, dựa vào thế núi xây
dựng một công trình phòng ngự kiên cố như một pháo đài hiểm, biệt lập với bên ngoài. Kinh đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên trong nền văn minh Đại Việt của phong kiến tập quyền ở nước ta. Với diện tích trải rộng khoảng 300 ha, nằm gọn trong địa phận xã Trường Yên ngày nay, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ.
Từ vua Đinh Tiên Hoàng đặt nền móng đầu tiên cho đến vua Lê Đại Hành xây dựng kinh đô Hoa Lư là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của nước Đại Cồ Việt lúc bấy giờ. Đến đầu triều Lý, khi nước Đại Cồ Việt phát triển. Nhận thấy Kinh đô Hoa Lư không còn phù hợp nữa, muốn cho nước Đại Cồ Việt phát triển hơn nữa, có thế công, kinh đô phải là nơi rộng rãi, thuận tiện về giao thông thủy, bộ, trung tâm về địa lý, kinh tế… Nên vua Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư đến kinh thành Đại La (Thăng Long) vào mùa thu năm Canh Tuất (1010). Vua Lý Thái Tổ là người đặt cột mốc quan trọng nhất cho việc định kinh đô ở Thăng Long (Hà Nội).
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân Ninh Bình phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm và cần cù, sáng tạo, năng động trong lao động sản xuất xây dựng quê hương đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm lập nên nhiều chiến công xuất sắc được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Những năm qua, nhất là từ sau ngày tái lập tỉnh đến nay, Đảng bộ, quân dân Ninh Bình đã đoàn kết, vượt mọi khó khăn, triển khai thực hiện thắng lợi tương đối toàn diện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội.
* Đặc điểm địa lý tự nhiên.
+ Về vị trí địa lý.
Nhìn trên bản đồ Việt Nam, Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, tiếp giáp biển Đông. Ninh Bình có diện tích tự nhiên là 1.390 km2 [71]. Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính (6 huyện, 1 thành phố, 1 thị xã). Hệ tọa độ địa lý từ 19o50 đến 20o26 vĩ độ Bắc, từ 105o32 đến 106o20 kinh độ Đông.
Phía Bắc Ninh Bình giáp Hà Nam; phía Đông giáp Nam Định; phía Đông Nam giáp biển Đông; phía Tây và Tây Nam giáp Thanh Hóa; phía Tây giáp Hòa Bình. Ninh Bình có quốc lộ đi qua là 1A, 10, 12B, 45, có đường sắt Bắc Nam.
Có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, với mật độ khoảng 0,6-0,9 km/km2. Các
sông lớn ở Ninh Bình bao gồm sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vân, sông Vạc, sông Lạng… chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đổ ra biển.
+ Về địa hình.
Ninh Bình nằm trong vùng tiếp giáp giữa vùng đồng bằng sông Hồng và dải đá trầm tích ở phía Tây, lại nằm trong vùng trũng của đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp biển Đông, nên có một địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, đồi núi, nửa đồi núi và vừa có vùng trũng, vùng ven biển.
Vùng đồi núi và bán sơn địa: Với độ cao trung bình từ 90 - 120m, đặc biệt khu vực núi đá có độ cao trên 200m. Vùng này tập trung tới 90% diện tích đồi núi và diện tích rừng của tỉnh. Nơi đây có tiềm lớn trong phát triển loại hình du lịch, đặc biệt là khu vực thuận lợi cho tổ chức du lịch mùa đông và các loại hình hình du lịch thể thao như leo núi, du lịch sinh thái…
Vùng đồng bằng: Địa hình đồng bằng tương đối đơn điệu về ngoại cảnh nhưng là nơi tập trung tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là các di tích lịch sử văn hóa và là nơi hội tụ các nền văn minh của loài người.
Vùng ven biển có khoảng 18km bờ biển, với đường bờ biển tạo điều kiện thuận lợi cho phát triền du lịch hệ sinh thái vùng ven biển, khai thác các nguồn lợi ven biển và ngoài khơi.
Với địa hình đa dạng như vậy, Ninh Bình có đủ điều kiện để phát triển một nền kinh tế tổng hợp. Trong đó cần khai thác triệt để lợi thế về địa hình để tạo ra sự đa dạng và phong phú của du lịch Ninh Bình góp phần tạo thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển ở nhịp độ tăng trưởng cao.
+ Về khí hậu:
Ninh Bình cũng như các tỉnh khác của đồng bằng sông Hồng có khí hậu mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới, gió mùa đông lạnh nhưng còn nhiều ảnh hưởng của khí hậu ven biển, rừng núi so với điều kiện trung bình cùng vĩ tuyến;