dựng kết cấu hạ tầng ở một số công trình chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Một số KCN đã có quy hoạch tổng thể, nhưng khi doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, lập quy hoạch chi tiết phải điều chỉnh ranh giới một số dự án đã được giới thiệu địa điểm. Sự phối hợp của các sở, ban, ngành trong giải quyết các thủ tục hành chính sau cấp phép cho nhà đầu tư còn chưa rõ ràng, kịp thời.
Ngoài ra, tỉnh chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư vào các dự án hạ tầng thương mại, dịch vụ. Đối với hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, tuy đã phát triển nhưng chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu vận tải hàng hóa, nhất là hàng hóa tại các KCN; hệ thống cấp thoát nước cho các KCN, khu đô thị chưa được đảm bảo, còn xảy ra tình trạng ngập úng vào mùa mưa; hạ tầng logistic chưa phát triển đúng với tiềm năng của tỉnh.
Ba là, trong quá trình phát triển công nghiệp còn phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc cần được quan tâm giải quyết
Trong quá trình phát triển nóng của công nghiệp, Bình Dương đang đối mặt với nhiều thách thức, tiềm ẩn nguy cơ phát triển không bền vững, đặc biệt là tình trạng lao động nhập cư gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây để lại những hệ lụy mà tỉnh đang tập trung giải quyết như: những bất cập về điều kiện chăm sóc y tế, học tập, nhà ở, việc làm, tình hình an ninh trật tự, an toàn giao thông, ô nhiễm môi trường,...
Chất lượng nguồn nhân lực của địa phương còn thấp; nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ nhu cầu phát triển công nghiệp và hội nhập quốc tế của tỉnh còn thiếu. Cùng với quá trình phát triển nhanh của công nghiệp là quá trình thu hút lao động, dẫn đến sự gia tăng cơ học của dân số, tạo nên sức ép các vấn đề xã hội như nhà ở, bệnh viện, trường học không đáp ứng kịp. Hệ thống trường đào tạo trong tỉnh rất thiếu và yếu kém; trong khi đó, nhu cầu về lao động có tay nghề cơ bản hoặc có trình độ cao ngày càng đòi hỏi bức xúc.
Đời sống của người lao động vẫn chưa tương xứng với vai trò, vị trí và những gì họ đóng góp. Phần lớn lực lượng lao động ở Bình Dương là người ngoại tỉnh, xa nhà, nên đời sống vật chất và tinh thần thiếu thốn, chưa được quan tâm đúng mức. Trong quy hoạch và sử dụng đất 28 KCN và 8 CCN của Bình Dương, đất dành cho
việc xây dựng nhà ở công nhân, khu vui chơi giải trí, nhà trẻ hay bệnh viện rất ít, khiến cho công nhân gặp rất nhiều khó khăn.
* Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế
Có thể bạn quan tâm!
- Nhận Xét Quá Trình Đảng Bộ Tỉnh Bình Dương Lãnh Đạo Phát Triển Công Nghiệp Từ Năm 1997 Đến Năm 2015
- Sự Chỉ Đạo Sát Sao Của Đảng Bộ Tỉnh Bình Dương Đã Đem Lại Kết Quả Quan Trọng Trong Phát Triển Công Nghiệp
- Đảng Bộ Tỉnh Bình Dương Đề Ra Một Số Chủ Trương Về Phát Triển Công Nghiệp Chưa Phù Hợp Với Điều Kiện Thực Tiễn Của Địa Phương
- Nhận Thức Đúng Đắn Về Vai Trò Của Nguồn Nhân Lực, Từ Đó Tăng Cường Lãnh Đạo Nâng Cao Chất Lượng Và Sử Dụng Nguồn Nhân Lực Có Hiệu Quả Tạo
- Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 1997 đến năm 2015 - 20
- Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 1997 đến năm 2015 - 21
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
Thứ nhất, nhận thức của một bộ phận cấp ủy Đảng, chính quyền, còn hạn chế, nhất là cấp cơ sở còn thiếu năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Bình Dương về phát triển công nghiệp, đặc biệt là việc thực hiện Chương trình số 35-CTr/TU Chương trình phát triển công nghiệp nhanh và bền vững giai đoạn 2006 - 2010.
Thứ hai, tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên môn, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo công tác hoạch định và thực thi chủ trương, chính sách về phát triển công nghiệp ở các cấp, đặc biệt cấp cơ sở còn thiếu. Do đó, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp chậm được cụ thể hóa. Trình độ của lao động công nghiệp còn thấp, phần lớn là lao động nhập cư chưa qua đào tạo nên khả năng thích ứng với các ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao còn yếu. Việc thu hút nhân tài và các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghiệp về tỉnh công tác gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, nhiều cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến công nghiệp còn bất cập, chưa thực sự tháo gỡ các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Cơ chế khuyến kích đầu tư, hạ tầng đáp ứng cho phát triển công nghiệp có lúc triển khai còn chậm. Tổ chức bộ máy quản lý về công nghiệp của tỉnh còn nhiều bất cập, hiệu quả hoạt động chưa cao, nhất là công tác quản lý hoạt động của các KCN, CCN.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Trên cơ sở nhận xét, đánh giá khái quát những ưu điểm, hạn chế và tìm ra những nguyên nhân trong hoạt động lãnh đạo phát triển công nghiệp của Đảng bộ tỉnh Bình Dương từ năm 1997 đến năm 2015, Luận án đúc kết một số kinh nghiệm chủ yếu:
4.2.1. Không ngừng nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp và phát triển công nghiệp trong thời kỳ đổi mới.
Việc nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng là nhân tố quyết định làm cho đường lối của Đảng được thực hiện trong thực tiễn. Những
mục tiêu, phương hướng, giải pháp lớn do Đảng xác định trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước trên các lĩnh vực KT-XH phải được các đảng bộ địa phương quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.
Sớm nhận thức và quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Dương đã không ngừng năng động, sáng tạo, quyết tâm cao, kiên trì đường lối đổi mới, vượt qua khó khăn, thách thức. Bình Dương sớm có tầm nhìn và chiến lược phát triển phù hợp theo hướng hiện đại, các giải pháp linh hoạt, sáng tạo, khai thác tốt nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Đặc biệt, khi Đảng có chủ trương mở cửa, Bình Dương sớm có chủ trương “trải chiếu hoa” đón mời nhà đầu tư. Việc khai thác và sử dụng tốt vốn FDI đã góp phần phát triển nền kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực quản lý, phát triển công nghệ, mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi cho nền kinh tế của Bình Dương hội nhập nhanh với kinh tế thế giới và khu vực. Từ một tỉnh nông nghiệp, Bình Dương đã vươn lên hội nhập kinh tế quốc tế và trở thành trung tâm công nghiệp phát triển năng động trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Để có được những chủ trương, chính sách đúng đắn và phù hợp trong quá trình lãnh đạo phát triển công nghiệp, trước hết, Đảng bộ tỉnh luôn nhận thức được đầy đủ và sâu sắc về tầm quan trọng của công nghiệp đối với sự nghiệp CNH, HĐH của địa phương. Mặt khác, Đảng bộ tỉnh phải xác định đây là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng để thực hiện quan điểm đường lối của Đảng về CNH, HĐH và hội nhập quốc tế trong điều kiện mới. Chính vì vậy, vấn đề phát triển công nghiệp của tỉnh được quán triệt một cách sâu sắc, triệt để đến từng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng này, ngay từ khi tái lập tỉnh, Đảng bộ bắt tay ngay vào lãnh đạo thực hiện phát triển công nghiệp với mục tiêu:
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, hội nhập kinh tế với vùng và khu vực; biến tiềm năng lợi thế so sánh để thu hút đầu tư; chú
trọng phát triển công nghệ hiện đại, tiên tiến sản xuất hàng hóa có sức cạnh tranh cao; giữ vững và nâng cao vai trò vị trí của Tỉnh trong công cuộc phát triển của vùng kinh tế động lực [42, tr.36].
Quá trình nhận thức này tiếp tục được thể hiện trong Chương trình 35- CTr/TU, Về Chương trình phát triển công nghiệp nhanh và bền vững giai đoạn 2006 - 2010. Chương trình hành động ra đời là quá trình quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm thực hiện chiến lược của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006). Phát triển công nghiệp là sự phát triển đảm bảo về cơ cấu và cân đối giữa phát triển nhanh với đảm bảo hiệu quả bền vững, nâng cao mức sống và giải quyết việc làm cho người dân, đặc biệt quá trình phát triển công nghiệp phải đảm bảo về vấn đề môi trường. Đây là một quan điểm có ý nghĩa quan trọng trong phát triển công nghiệp bền vững ở địa phương. Ngoài ra, Đảng bộ tỉnh còn chỉ đạo các sở ban ngành và các cơ quan chức năng về tham mưu phát triển công nghiệp như: Sở Công - Thương tham mưu cho UBND tỉnh về việc lập quy hoạch, bố trí các ngành nghề sản xuất công nghiệp; Sở Tài nguyên - Môi trường làm tốt công tác quy hoạch đất đai tạo điều kiện tốt về mặt bằng và giao đất cho các KCN và phê duyệt vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển công nghiệp; Sở Nội vụ phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, sở Lao động Thương binh và Xã hội xây dựng kế hoạch đào tạo và thu hút nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp.
Với những chủ trương, quan điểm và chính sách đúng đắn trong thực hiện phát triển công nghiệp giai đoạn 1997-2015 của Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã đem lại kết quả tích cực trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo, đồng thời, cũng là những nội dung có giá trị lý luận quan trọng để tiếp tục vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới. Do vậy, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc cho mỗi người dân hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp.
Nhận thức tầm quan trọng của công nghiệp đối với sự nghiệp CNH, HĐH của địa phương là vấn đề có ý nghĩa chiến lược giúp Đảng bộ vượt qua những khó khăn trở ngại, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra.
4.2.2. Luôn coi trọng, bám sát thực tiễn khách quan, vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng phù hợp với yêu cầu thực tế của địa phương.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng bộ tỉnh Bình Dương luôn quán triệt tư duy mới của Đảng về phát triển công nghiệp, nắm vững mục tiêu, quan điểm chỉ đạo phát triển công nghiệp phù hợp với đặc điểm từng vùng của địa phương. Tập trung sức khơi dậy và phát huy thế mạnh của từng địa phương, giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả của nền kinh tế.
Đảng bộ tỉnh Bình Dương luôn bám sát và quán triệt sâu sắc các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp. Vận dụng mô hình phát triển công nghiệp, tỉnh Bình Dương vừa khai thác được những tiềm năng, thế mạnh của mình, vừa thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Qua đó, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phát triển các KCN nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tiếp cận, nắm bắt những thành tựu khoa học công nghệ mới và phương pháp tổ chức quản lý kinh tế khoa học của các nước tiên tiến trên thế giới. Công nghiệp phát triển, đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, đây là nhân tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bình Dương.
Đảng bộ tỉnh không ngừng nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo vào thực tế của tỉnh, tạo được bước đột phá trên nhiều lĩnh vực. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh xác định thuận lợi, thời cơ, tiềm năng và khó khăn, từ đó xác định và thực hiện nhất quán quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, tập hợp trí tuệ của toàn Đảng bộ, từng đảng viên, và của mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế của tỉnh để phát triển KT-XH. Chủ động kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn trên từng ngành, lĩnh vực cụ thể để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của tỉnh, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP của tỉnh. Chủ động trong việc quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển các ngành, các lĩnh vực liên quan; chủ động trong việc kêu gọi, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, coi đó là động lực chính để phát triển kinh tế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, có tính hấp dẫn và cạnh tranh hơn so với tỉnh, thành khác.
Các mục tiêu và quan điểm về phát triển công nghiệp do Đảng bộ tỉnh đề ra vừa mang tính khoa học, vừa phù hợp với điều kiện của địa phương và xu hướng phát triển chung của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh tập trung chỉ đạo các cấp, sở, ban, ngành, các huyện, thị phát huy nội lực, khai thác tiềm năng trong phát triển công nghiệp theo hướng nhanh và bền vững. Đẩy mạnh hợp tác đầu tư để tranh thủ nguồn lực bên ngoài vào phát triển các ngành kinh tế, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của Trung ương và các sở, ban ngành và đóng góp của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng đặc biệt giao thông đô thị và giao thông nông thôn.
Thực tiễn phát triển công nghiệp từ 1997 đến 2015 cho thấy, phải đặc biệt quan tâm hoàn thiện môi trường đầu tư, Bình Dương đã thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” để sớm có một cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo độ tin cậy cho các nhà đầu tư khi đến làm ăn tại Bình Dương. Thực hiện cơ chế này, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chủ động chỉ đạo đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong quản lý nhà nước, trong việc thẩm định và cấp giấy phép đầu tư, giảm thuế, miễn thuế, giảm giá thuê đất, miễn phí sử dụng hạ tầng... Đó là những giải pháp nhằm khuyến khích đầu tư theo hướng kết hợp giữa việc lấp đầy diện tích các KCN với nâng cao chất lượng các dự án đầu tư, ưu tiên các dự án có vốn lớn, công nghệ cao, nguy cơ gây ô nhiễm thấp, hạn chế các dự án vốn thấp chiếm diện tích lớn. Ưu tiên các dự án sản xuất sản phẩm vừa tiêu thụ trong nước và nước ngoài và sử dụng nguyên liệu tại chỗ. Coi đây là giải pháp mang tính đột phá, tạo sự thông thoáng, thu hút đầu tư xây dựng các KCN. Mặt khác, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các ban, ngành liên quan đã triển khai nhiều biện pháp xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, quảng bá rộng rãi hình ảnh của tỉnh Bình Dương trên thế giới, giới thiệu những tiềm năng về xây dựng KCN của địa phương.
Trên cơ sở chủ trương chung của Đảng quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp ở các vùng trong cả nước. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Dương triển khai đồng bộ hạ tầng công nghiệp ở những vùng có tiểm năng lợi thế, đặc biệt là ở các huyện thị phía Nam của tỉnh xây dựng các KCN tập trung, nhằm phát huy tối đa tiềm năng lợi thế sẵn có của các địa phương về nguồn nguyên liệu tại chỗ. Phát triển những ngành nghề thủ công truyền thống, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu
tư sản xuất kinh doanh ở nhiều quy mô, trình độ khác nhau, tạo thêm nhiều việc làm phong phú đa dạng cho các đối tượng lao động. Việc quy hoạch và xây dựng CCN, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Dương phân cấp cho các địa phương quản lý xây dựng và phê duyệt dự án.
Những kết quả to lớn trong quá trình phát triển công nghiệp ở Bình Dương trong thời gian qua đã khẳng định Đảng bộ tỉnh đã nắm vững chủ trương phát triển công nghiệp của Đảng và vận dụng sáng tạo trong điều kiện thực tiễn địa phương. Quá trình phát triển công nghiệp, tỉnh Bình Dương đã khai thác được những tiềm năng, thế mạnh vốn có của mình về điều kiện tự nhiên và xã hội, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
4.2.3. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng bộ luôn quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển công nghiệp.
Hạ tầng kỹ thuật là một trong những điều kiện rất cần thiết để thực hiện CNH, HĐH. Nhận thức được được tầm quan trọng này, trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo, Tỉnh ủy, UBND tỉnh cùng với Đảng bộ và chính quyền các cấp luôn tranh thủ nguồn vốn của Trung ương, nguồn ngân sách của địa phương và nguồn đóng góp của nhân dân để tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH.
Về giao thông, thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh, từ khi tái lập tỉnh, UBND tỉnh Bình Dương đã huy động nhiều nguồn vốn khác nhau đầu tư cho phát triển hệ thống giao thông như: vốn ngân sách, vốn đầu tư theo hình thức BOT, vốn huy động trong nhân dân… để xây dựng các hệ thống giao thông huyết mạch phục vụ cho phát triển kinh tế, thông thương hàng hóa giữa các vùng và từ các KCN đến nơi xuất khẩu. Nhờ vậy, đến năm 2015, Bình Dương có một hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo lưu thông thông suốt.
Để thực hiện phương hướng trên, Đảng bộ tỉnh Bình Dương tập trung chỉ đạo các ban ngành liên quan huy động nhiều nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tập trung cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Cụ thể, sử dụng tốt nguồn vốn hỗ trợ từ các bộ, ngành Trung ương, vốn đối ứng của các khoản vay nước ngoài, vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia; tranh thủ vốn
ODA hoặc viện trợ không hoàn lại của các nước, các tổ chức quốc tế đầu tư cho hệ thống giao thông Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Để phát triển sản xuất công nghiệp ổn định, mạng lưới cung ứng điện cần tiếp tục được tập trung đầu tư, nhất là ở các KCN, CCN. Trong quy hoạch điện lực cần chú trọng tới mục tiêu đầu tư hiệu quả vào cơ sở hạ tầng điện lực, tầm quan trọng của việc sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả, khuyến khích phát triển nguồn năng lương tái tạo, nâng dần tỷ trọng của loại nguồn này trong cơ cấu nguồn điện nhằm góp phần giảm thiểu tác động môi trường trong sử dụng điện sản xuất. Hệ thống viễn thông tiếp phát huy hiệu quả vai trò, vị trí của một ngành thuộc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế quốc dân, cung cấp kịp thời nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngày càng đa dạng về chủng loại với công nghệ hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng, sự thuận tiện và sát thực với lợi ích của nhân dân và toàn xã hội, phục vụ đắc lực vào sự nghiệp CNH, HĐH.
Về đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, Tỉnh cần tiếp tục ban hành các chỉ thị về việc chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý đầu tư xây dựng; về quản lý đầu tư xây dựng các KCN, khu nhà ở, khu đô thị mới; về công tác lập, quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý kiến trúc tại các đô thị trên địa bàn tỉnh. Ban chỉ đạo xây dựng cơ bản của tỉnh tổ chức họp định kỳ để giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc và đôn đốc tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Tỉnh kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc về phân cấp đầu tư xây dựng; chỉ đạo đẩy mạnh công tác giải tỏa, đền bù và thi công các công trình cơ bản. Nhờ những chủ trương kịp thời và sáng suốt của Đảng bộ tỉnh, công tác đầu tư xây dựng của tỉnh được thực hiện rất tốt, hạ tầng cơ sở tương đối hoàn thiện phục vụ phát triển công nghiệp.
Yếu tố góp phần quan trọng đưa Bình Dương trở thành địa phương thành công trong sự nghiệp CNH, HĐH đó là biết khai thác tiềm năng lợi thế so sánh của mình, tập trung thực hiện đột phá quan trọng xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Bình Dương có địa hình cao ráo, khá bằng phẳng, địa chất công trình tốt thuận lợi cho việc xây dựng các hạ tầng kỹ thuật, xây dựng các KCN, CCN. Bên cạnh đó, Bình Dương nằm ở vị trí thuận lợi trong việc tiếp cận với đường biển, đường bộ nối