đồng thời, thành lập mới “Công ty Vũng Tàu Intourco” vừa đáp ứng nhu cầu xã hội, vừa tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, ngành du lịch của đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo từng bước tạo dựng được cơ sở vật chất, thu hút lớn lượng khách trong nước và ngoài nước. Doanh thu du lịch góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của đặc khu. Có thể nói, sự phát triển du lịch trong giai đoạn này, là tiền đề quan trọng cho việc phát triển du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ sau khi được thành lập (1991) trở đi.
Tuy nhiên, đánh giá khách quan, tốc độ và chất lượng hoạt động du lịch thời kỳ trước năm 1991 vẫn chưa tương xứng với tiềm năng là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước. Hoạt động du lịch chủ yếu chỉ phục vụ công tác khai thác dầu khí, khách tham quan hoạt động dầu khí. Số lượng khách trong nước và quốc tế còn rất hạn chế. Du lịch, “chưa khai thác được tốt mọi tiềm năng trong tỉnh” [39, tr.16]. Đội ngũ cán bộ làm kinh tế du lịch chưa tiếp cận được với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Cơ sở du lịch thường lúng túng trong việc giải quyết các khó khăn về vốn, vật tư, marketing và công tác tiếp thị. Nhiều cơ sở du lịch kinh doanh không có hiệu quả.
Những hạn chế, bất cập nêu trên, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sau khi được thành lập phải có những bứt phá chiến lược trong chủ trương, thúc đẩy du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
2.2. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU VẬN DỤNG CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH (1991 - 2005)
2.2.1. Một số chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế du lịch
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1985 - 1991), tuy tình hình thế giới có nhiều biến động, nhưng tình hình chính trị của đất nước vẫn giữ được ổn định. Nền kinh tế có những bước phát triển, hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đáp ứng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Phát Triển Du Lịch Ở Các Địa Phương, Cơ Sở
- Nhóm Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Du Lịch Và Kinh Tế Du Lịch Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- Thực Trạng Kinh Tế Du Lịch Bà Rịa - Vũng Tàu Trước Năm 1991
- Đảng Bộ Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Chỉ Đạo Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Giai Đoạn (1991 - 2005)
- Chỉ Đạo Từng Bước Nâng Cao Chất Lượng Hoạt Động Các Loại Hình Du Lịch
- Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015 - 9
Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng, ban hành Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, trong đó xác định: “Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển trên cơ sở khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên, di sản văn hóa phong phú và các lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh du lịch” [38, tr.253]. Lần đầu tiên, Đảng đề cập tới: “Phát triển du lịch, vận tải hàng không” [33, tr.74] và phát triển du lịch gắn với tài nguyên biển: “Vùng biển và thềm lục địa rộng lớn có nhiều tiềm năng về thủy sản, dầu khí, dịch vụ hàng hải và du lịch” [38, tr.242].
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 14 tháng 10 năm 1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới. Đánh giá rõ những kết quả và hạn chế, khó khăn cần khắc phục, Ban Bí thư chủ trương đổi mới và phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế du lịch, trên các quan điểm là:
Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển KT - XH của Đảng và Nhà nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hoạt động du lịch phải đồng thời đạt hiệu quả trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và nhân phẩm con người Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước [5, tr.1].
Quan điểm nêu trên đã mở ra cho ngành du lịch hướng phát triển mới không chỉ đối với du lịch nội địa mà còn mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, lần đầu tiên đưa ra khái niệm: “Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao” [5, tr.2]. Từ chủ trương này cho thấy, du lịch không còn là tránh nhiệm của một ngành chức năng như trong thời kỳ bao cấp mà còn là nhiệm vụ, trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, cần sự quan tâm phối hợp chặt chẽ với nhau.
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò của ngành kinh tế du lịch và tiềm năng du lịch của đất nước, Chỉ thị số 46-CT/TW nêu rõ mục tiêu cơ bản của ngành du lịch đến năm 2000, là: “Đổi mới và phát triển các cơ sở và phương thức kinh doanh phục vụ, tạo được các sản phẩm du lịch mang tính dân tộc, kết hợp với tính hiện đại, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đón khách du lịch và những chỉ tiêu kinh tế, xã hội nhà nước giao, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ và lành mạnh du lịch Việt Nam vào đầu thế kỷ XXI” [5, tr.2].
Để lãnh đạo thực hiện mục tiêu trên, Ban Bí thư cũng đề ra yêu cầu đối với các cấp ủy, các tổ chức Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác du lịch; tăng cường công tác quản lý, hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách về công tác du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới; chỉ đạo chặt chẽ công tác xã hội hóa du lịch…
Chỉ thị số 46-CT/TW là nền tảng quan trọng để Chính phủ và các cấp, các ngành chỉ đạo, khuyến khích các thành phần kinh tế tổ chức kinh doanh du lịch dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế Việt Nam đã có bước tăng trưởng khá ở tất cả các lĩnh vực kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tài chính, tiền tệ… Đối với ngành kinh tế du lịch, sau hơn hai năm thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư, đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, được đánh giá có bước phát triển nhanh với mức doanh thu tăng đều, gấp 10 lần năm 1986 [46, tr.358]. Du lịch đã thể hiện rõ
là ngành kinh tế tổng hợp, đóng góp quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng và hiệu quả kinh tế du lịch vẫn còn một số mặt hạn chế, đang nằm ở dạng tiềm năng chưa được khai thác tốt. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng của cả nước còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, dẫn đến chất lượng dịch vụ du lịch chưa cao.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng, tiếp tục chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH các ngành kinh tế, trong đó chú trọng phát triển kinh tế du lịch. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Phát triển du lịch, các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, với mục tiêu: Từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực [42, tr.89]. Đại hội nhấn mạnh, nhiệm vụ phát triển du lịch cần tập trung vào các sản phẩm đặc trưng, phù hợp tiềm năng của đất nước:
Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hóa, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung, ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hóa và chất lượng dịch vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau [34, tr.194].
Chủ trương cụ thể của Đảng cũng chỉ ra các yêu cầu về tăng cường huy động vốn đầu tư vào hạ tầng khách sạn với hình thức cổ phần hóa các khách sạn để tăng cường đầu tư cải tạo, nâng cấp, chuyển các nhà nghỉ, nhà khách sang kinh doanh khách sạn và du lịch. Đặc biệt, tăng cường liên doanh với nước ngoài để việc xây dựng các khu du lịch cũng như khách sạn đạt chất lượng cao, đưa đất nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng đi sâu tổng kết những thành tựu đạt được của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội (1991 - 2000), rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó, đề ra chiến lược phát triển trong nhiệm kỳ tới. Đại hội thông qua Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI (2001 - 2010), nhằm mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Theo đó, ngành du lịch cũng được tăng cường chỉ đạo, góp phần hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ Đảng đề ra trong giai đoạn 2001 - 2005:
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước [35, tr.178].
Đại hội đề ra định hướng cụ thể phát triển kinh tế du lịch trong giai đoạn từ 2001 đến 2005:
Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm; đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển và đa dạng hóa các loại hình và các điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lịch sử, thể thao hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất và đẩy mạnh hợp tác liên kết với các nước trong hoạt động du lịch [35, tr.287].
Cùng với việc xác định chủ trương phát triển chung cho ngành du lịch trên phạm vi cả nước, trong “Định hướng phát triển các vùng lãnh thổ”, Đại hội IX của Đảng còn nêu rõ quan điểm phát triển của từng vùng. Đối với vùng miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Đại hội chỉ rỏ: “Ngoài trung tâm du lịch và dịch vụ lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung phát triển du lịch, dịch vụ biển ở Vũng Tàu, Côn Đảo, Mũi Né. Hình thành các đô thị vệ tinh của Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa” [35, tr.313].
Đây là cơ sở để các địa phương xây dựng những định hướng phát triển du lịch phù hợp, khai thác tối đa thế mạnh trên địa bàn, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, năm 2005, Luật Du lịch được ban hành là cơ sở pháp lý để tăng cường công tác quản lý Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, thúc đẩy phát triển du lịch. Một trong những nguyên tắc cơ bản phát triển du lịch được Luật nêu rõ là: “Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch” [73, tr.11].
2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế du lịch (1991 - 2005)
Sau khi thành lập Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Quyết định số 64- NQ/TW, ngày 25-9-1991 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khẩn trương củng cố tổ chức Đảng, bộ máy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, khắc phục khó khăn, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có nền kinh tế phát triển theo cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Trong đó, tận dụng lợi thế về không gian địa - kinh tế, với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch như “hơn 100 km chiều dài bờ biển, phần lớn là bãi cát bằng phẳng, nước trong xanh quanh năm, có thể làm bãi tắm tất cả các
mùa…; khu rừng nguyên sinh Bình Châu - Phước Bửu, vườn quốc gia Côn Đảo, khu di tích quốc gia Côn Đảo rất có ý nghĩa đối với du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, giáo dục truyền thống” [12, tr.176].
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ I (4-1992), trên cơ sở phân tích, đánh giá rõ thực trạng tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh; nhìn nhận rõ những nội dung còn hạn chế ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng. Trong đó, thể hiện ở một số lĩnh vực kinh tế, như: công nghiệp địa phương còn nhỏ bé, công nghệ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất ở trình độ tinh chế. Các ngành kinh tế dịch vụ phát triển thiếu cân đối, dịch vụ cho sản xuất chưa được chú trọng đúng mức, chưa khai thác tốt mọi tiềm năng trong tỉnh để làm dịch vụ. Sản xuất nông nghiệp còn nhiều khó khăn về cung ứng vật tư, giá cả thị trường tiêu thụ. Hiệu quả nuôi trồng hải sản còn thấp. Rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Nhiều công ty, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tín dụng,… thua lỗ nặng, khó có khả năng thanh toán nợ nần. Các dự án hợp tác đầu tư với các công ty nước ngoài phát huy hiệu quả còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng (phương tiện giao thông, liên lạc, điện, nước, các cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế, v.v…) tuy đã được cố gắng cải tạo, bổ sung song vẫn rất lạc hậu so với yêu cầu. Hàng ngàn lao động không có việc làm ổn định. Tệ nạn xã hội và tình trạng vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chưa tiếp cận kịp nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, lúng túng trong giải quyết các khó khăn về vốn, vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm…
Trong điều kiện mới thành lập, các công việc ổn định bộ máy tổ chức, sắp xếp hợp lý lực lượng cán bộ, điều tra cơ bản, quy hoạch tổng thể… phải cần có thêm thời gian. Những khó khăn nêu trên, trực tiếp hoặc
gián tiếp đều ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của tỉnh. Đại hội của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề ra chủ trương:
Về dịch vụ du lịch, coi trọng cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Mở rộng liên doanh tạo nguồn du lịch trong và ngoài nước. Tổ chức nhiều điểm du lịch với các loại hình du lịch phong phú, khai thác có hiệu quả điều kiện tự nhiên các di tích lịch sử và các sản phẩm du lịch hiện có. Gọi vốn đầu tư xây dựng các khu du lịch ở Vũng Tàu, Long Hải, Bình Châu. Phát huy khả năng kinh doanh dịch vụ du lịch của nhân dân. Nâng cao tính văn hóa, tính dân tộc trong hoạt động du lịch, tăng doanh thu dịch vụ du lịch bình quân 9,5%/năm” [39, tr.27].
Các vấn đề về thị trường du lịch, nguồn lực đầu tư cho du lịch, sản phẩm du lịch, các khu du lịch trọng yếu của tỉnh được Đảng bộ tỉnh chỉ đạo, tạo điều kiện để hoạch định thành chương trình, kế hoạch cụ thể trong quá trình triển khai thực hiện; tranh thủ mọi khả năng để mở rộng hoạt động, đem lại kết quả kinh doanh cao nhất.
Như vậy, ngay từ khi thành lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc về những khó khăn thách thức, đồng thời cũng nhận thấy rõ tiềm năng, thế mạnh về phát triển du lịch của tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ II (tháng 5- 1996), trên cơ sở đánh giá kết quả gần 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, và nhất là việc thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới, Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ ghi nhận: “Kinh tế dịch vụ phát triển đa dạng hơn trước, đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu của sản xuất và đời sống,… Dịch vụ du lịch được mở rộng cả trong và ngoài nước, thu hút mỗi năm từ 1,5 đến 2,5 triệu lượt du khách, trong đó có hàng trăm ngàn lượt khách quốc tế, doanh thu từ 165 đến 440 tỷ đồng/năm” [40, tr.13]. Trên thực tế, kinh tế du lịch của tỉnh từng bước khẳng định rõ là ngành