Công Tác Theo Dõi Giám Sát Còn Chưa Được Đồng Bộ


Nhiều khi TTB hỏng lại không được sửa chữa kịp thời khiến cho việc vận hành để cung cấp dịch vụ bị đình trệ.

Ở một số địa phương, do điều kiện khó khăn cho nên nếu không bố trí kinh phí để có máy điều hòa, máy sưởi ấm thì cũng không có khả năng vận hành hoạt động. Do vậy cần phải đảm bảo được điều kiện cơ sở vật chất của địa phương cho đồng bộ với trang thiết bị máy móc ngành y tế trang bị thì mới phát huy được hiệu quả của TTB.

Việc cung cấp TTB tại cơ sở cũng chưa đồng bộ. Các bộ phận của máy CPAP (máy thở) không đồng bộ cho nên sử dụng được một thời gian thì khó vận hành. Bộ hồi sức sơ sinh được cung cấp chưa được hoàn chỉnh, thiếu bóng bóp, mặt nạ, lò sưởi sơ sinh (Nữ hộ sinh tỉnh Phú Thọ).

Số lượng cung cấp thấp hơn với đề xuất thực tế, chỉ có 3 đèn chiếu vàng mà có 4 giường sơ sinh. Dụng cụ không đúng kích cỡ, như dụng cụ dùng cho sơ sinh thì quá to, không sử dụng được.

Tính đồng bộ về cơ sở vật chất và nhân lực cũng là một điểm cần lưu ý. Mặc dù dự án đã chú trọng vào đào tạo nhân lực ngay từ khi triển khai, nhưng trên thực tế nhân lực thiếu khiến cho TTB được cung cấp không phát huy được hiệu quả.

Ở Kon Tum, TTB đã được trang bị đầy đủ ở góc sơ sinh, BV huyện nhưng không sử dụng được vì không có nhân lực để sử dụng. Do vậy giám sát viên đã đề xuất điều chuyển sang nơi khác vì trong giai đoạn tới cũng chưa có khả năng dùng được sớm.

Bên cạnh những bất cập liên quan đến cung cấp và sử dụng TTB, việc thiếu dự trữ máu ở các bệnh viện huyện khiến cho công tác triển khai truyền máu còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa những hướng dẫn về công tác truyền


máu lại do ngành huyết học trực tiếp đưa ra và Vụ SKBMTE không có khả năng hỗ trợ nhiều về lĩnh vực đó, khiến cho việc triển khai công tác thực hiện truyền máu ở địa phương có những điểm còn bất cập.

Như vậy, điều kiện cơ sở vật chất, TTB thiếu thốn và sử dụng chưa hiệu quả là một trong những rào cản khiến cho việc triển khai cung cấp dịch vụ còn gặp nhiều khó khăn. Điều này cần phải tiếp tục nỗ lực trong giai đoạn còn lại của dự án.

3.3.3. Công tác theo dõi giám sát còn chưa được đồng bộ

Mặc dù dự án đã cố gắng thiết lập được hệ thống theo dõi giám sát khá hiệu quả trong đào tạo tập huấn cán bộ y tế, tuy nhiên một số điểm vẫn còn bất cập. Hiện nay vẫn chưa đưa ra được những chỉ số để theo dõi giám sát tiến độ, đặc biệt là các chỉ số quá trình. Điều này cũng là một khó khăn trong việc đánh giá kết quả can thiệp.

ngày.

Việc huy động được đội ngũ giám sát viên cam kết vì công việc hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, khiến cho việc hỗ trợ tuyến dưới triển khai công việc rất khó, đặc biệt những kỹ thuật yêu cầu phải có CBYT nằm vùng lâu


“Cũng khó đấy, khó ở chỗ là giám sát viên, những giám sát viên mà tâm huyết ít lắm, đưa xuống mà mời người ta, những giám sát viên hàng đầu mà bảo người ta nằm lại hàng tuần thì người ta không ở được đâu, người ta ở đến 2 ngày, 3 ngày là cùng, mà toàn các bác về hưu, sắp về hưu thôi nên phải chịu. Chị Khanh, cô Thanh Mai ở sơ sinh này, rồi cô Hoa Hồng này, chứ còn như ở trong Từ Dũ, Nhi Đồng II thì người ta cũng đi được ít, không đi được nhiều (PV NHS Kon Tum).


Mặc dù là công tác giám sát hỗ trợ kỹ thuật từ tuyến trên xuống tuyến dưới được ghi nhận là rất có hiệu quả, tuy nhiên, về tính khả thi trong nhân


rộng thì còn nhiều băn khoăn do chi phí quá cao. Nếu không có kinh phí thì khó có khả năng thực hiện được.


“Em thấy cái mô hình này nó hơi đắt tiền, đắt tiền không phải ở chỗ cơ sở vật chất, trang thiết bị mà nó đắt tiền ở chỗ giám sát hỗ trợ, nó yêu cầu giám sát hỗ trợ rất nhiều, những yêu cầu ban đầu khi các bác đi học về là phải có người đứng cạnh, không là các bác không mổ được, cái giám sát cầm tay chỉ việc là phải triển khai khá là thường xuyên, 1 tháng phải xuống 1 lần nằm 1 tuần, nếu không phải tiền UNFA thì chịu, tiền nhà nước là chịu, nên mô hình này không phải là không có những nhược điểm (CBQL tỉnh Kon Tum).

Như vậy những hạn chế về theo dõi giám sát này cần phải được lưu ý để khắc phục trong giai đoạn tới.

3.3.4. Sử dụng dịch vụ tuyến dưới

Xu thế ít sử dụng dịch vụ tuyến cơ sở đã được xác định ở các địa bàn dự án. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc ít sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cơ sở. Một trong những yếu tố chính có liên quan tới địa bàn sống. Người dân sống ở các vùng miền xa xôi, đường giao thông chưa thuận tiện có xu hướng ít sử dụng dịch vụ y tế do họ sống xa các trung tâm y tế.

Tương tự như vậy, ở những địa bàn khi có địa hình phức tạp, đi lại khó khăn (Kon Tum), thì người dân cũng ít sử dụng dịch vụ y tế ở các cơ sở y tế.

“Như anh cũng biết đấy Kon Tum là một cái địa bàn, cái địa hình nó rất phức tạp về giao thông đi lại hết sức là khó khăn. Đặc biệt là chúng tôi có những cái xã mà vào mùa mưa thì phương tiện giao thông không thể đi đến được. Cái trạm y tế xã thì cái đầu tư cũng chưa được bài bản, chưa đủ các điều kiện để thực hiện các chương trình hỗ trợ cái chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ. Thế thì đặc biệt nữa là cái nguồn nhân lực của các trạm y tế xã thì không đảm bảo (PVS CBYT xã, tỉnh Kon Tum).


Điều kiện kinh tế khó khăn cũng hạn chế việc sử dụng dịch vụ y tế tại các tuyến y tế cơ sở.

Có những huyện như Tu mơ rông và KonPLong có trên 90% bà con là người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó việc đi lại rất là khó khăn và không có tiền chi trả dịch vụ là những rào cản chính khiến cho người dân không sử dụng dịch vụ tại cơ sở y tế.

Ngược lại với xu hướng trên, ở những khu vực có điều kiện giao thông thuận tiện giữa xã và huyện, người dân có điều kiện kinh tế thì thường có xu hướng sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cao hơn do tin rằng chất lượng dịch vụ y tế ở đó tốt hơn tuyến cơ sở.

“Mặc dù tuyến xã có chương trình LMAT tốt những người dân ít đẻ tại xã do đường giao thông thuận tiện giữa xã và tỉnh nên họ lên thẳng huyện và tỉnh để đẻ và không ai đẻ tại nhà” (PVS CBQLYT tỉnh Phú Thọ).

Những năm trở về trước thì đường xá hoặc phương tiện người ta không có người ta đến sinh ở đây. Mỗi tháng nếu mà sinh thấp nhất ở đây là 10 ca, sinh cao nhất 25 ca. Những năm trở về trước các chị em sinh thì khoảng 90% là sinh tại đây. Những năm trở lại đây, điều kiện phương tiện đi lại thuận tiện hơn, con ít nên người ta sinh thì đi tuyến huyện là nhiều. Ở đây, tụi em chủ yếu là quản lý, khám định kỳ và tiêm chủng(PVS CBQLYT tỉnh Phú Thọ).

Bên cạnh yếu tố về kinh tế, đường giao thông thì phong tục tập quán có ảnh hưởng nặng tới hành vi CSSKSS của người dân địa phương. Ở những địa phương như Tomorong thì việc đi khám và đẻ tại cơ sở y tế còn gặp nhiều rào cản. Người dân cảm thấy xấu hổ, không muốn khám và cho rằng đẻ tại nhà thì thoải mái hơn.


“Cái vấn đề ý, thứ nhất là họ ngại họ xấu hổ với phong tục tập quán sao nữa thì em cũng… không hiểu được. Có những cái người đang trong giai đoạn chuyển dạ đấy, tới đây khám, em nói là ở lại khám nhưng mà họ cũng viện cớ lý do nọ, lý do kia họ trốn về, cũng khó giữ được họ” (PVS CBQL xã Mang Ri, Tumorong, tỉnh Kon Tum)

“Nhưng mà đẻ ở nhà thì dễ hơn. Người dân tộc ở đây đẻ ở nhà bà, mẹ đỡ thì dễ hơn” (PVS CBQL xã Mang Ri, Tumorong, tỉnh Kon Tum

“Chỉ những ca đẻ thường thì mới tới TYT để đẻ mà thôi (PVS CBQL

tỉnh Kon Tum”


Bên cạnh đó, việc không biết tiếng Kinh cũng là một rào cản khiến cho phụ nữ không đi khám và đẻ tại cơ sở y tế.

Một lý do khác được xác định liên quan đến địa điểm đăng ký BHYT. Hiện nay, BHYT cho người nghèo mới bắt buộc phải khám ở tuyến xã. Còn những loại BHYT khác thì người dân chủ động đăng ký sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến trên. Điều này cũng ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ tại TYT.

Ở Kon Tum, thì đại đa số người dân lại đăng ký sử dụng BHYT tại tuyến xã, rất ít ca đăng ký khám chữa bệnh tại tuyến huyện. Những người có BHYT thì được thanh toán 100%.

Như vậy, xu hướng ít sử dụng dịch vụ y tế (khám thai, sinh con) ngày càng ít tại tuyến xã xuất hiện gần đây và có thể tạo ra các ảnh hưởng không tốt như lãng phí nguồn lực, đầu tư không đúng tại các khu vực dự án ở xã. Do vậy, ngay cả những nhà quản lý cũng đưa ra các băn khoăn cơ cấu danh mục trang thiết bị cho trạm y tế xã trong chương trình này cũng cần cân đối lại.



“Không sinh nhiều. Một số cá biệt thì một năm sinh tại trạm y tế xã được vài trường hợp là nhiều. Thậm chí có nhiều xã còn không có người sinh. Vậy nên đầu tư về thiết bị hoặc kiến thức về chuyên môn cho cán bộ tuyến xã cũng nên xem xét. Có thể một năm không đỡ ca nào. Nhiều khi mình trang bị đầy đủ hết nhưng người ta không đến.Thậm chí người ta còn chê tỉnh. Người ta lên bệnh viện tỉnh.Tốn tiền nhưng người ta vẫn lên” (PVS QLDA, Tỉnh Phú Thọ).



3.3.5. Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ của các bà mẹ Bảng 3.36. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến việc khám thai

đầy đủ (>=3 lần) trước khi sinh của bà mẹ



Các yếu tố

Trước can thiệp

Sau can thiệp

OR

95% CI

OR

95% CI

Tuổi (=<25/>25)

2,3

0,35-14,22

1,7

0,31-9,45

Dân tộc (Kinh/dân tộc)

5,6

1,34-9,35

0,8

0,13-5,23

Khả năng nói tiếng Việt (không tốt/

tốt)

0,6

0,23-0,94

1,1

0,08-1,93

Lần mang thai (1 lần/2 lần trở lên)

0,7

0,18-2,58

1,14

0,24-7,59

Tỉnh (Hà Giang, Kon Tum/Hoà Bình,

Phú Thọ, Ninh Thuận)

0,3

0,02-0,74

0,9

0,80-2,89

Khoảng cách (xa/gần)

0,2

0,01-0,86

0,9

0,19-6,18

Hài lòng về TYTX (có/không)

1,1

0,08-3,26

3,5

1,15-6,34

Hài lòng về BV huyện (có/không)

1,8

0,34-12,94

4,7

1,45-9,97

Hài lòng về BV tỉnh (có/không)

1,2

0,14-4,79

4,3

1,16-9,06

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Đánh giá hiệu quả can thiệp làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012 - 15


Bảng trên cho thấy trên phương trình hồi qui đa biến phân tích một số yếu tố về phía bà mẹ ảnh hưởng đến việc khám thai trước sinh. Trước khi can thiệp có một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng dịch vụ khám thai trước sinh của các bà mẹ. Những bà mẹ người Kinh, có khả năng hiểu tiếng Việt tốt, các tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hoá tốt hơn, có khoảng cách tới cơ sở y tế gần hơn sử dụng dịch vụ khám thai tốt hơn các bà mẹ khác. Nhưng sau can thiệp các yếu tố trên đều không ảnh hưởng đến việc khám thai của các bà mẹ. Tuy nhiên, một số yếu tố khác như mức độ hài lòng của các bà mẹ đối với các cơ sở y tế tuyến huyện lại ảnh hưởng tốt hơn đến thực hành khám thai của các bà mẹ.

Bảng 3.37. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến nơi sinh tại cơ sở y tế của bà mẹ


Các yếu tố

Trước can thiệp

Sau can thiệp

OR

95% CI

OR

95% CI

Tuổi (=<25/>25)

1,5

0,53-4,27

1,1

0,64-7,23

Dân tộc (Kinh/dân tộc)

5,2

2,46-12,64

0,9

0,31-4,21

Khả năng nói tiếng Việt (không tốt/ tốt)

4,4

1,63-8,76

0,8

0,02-1,87

Lần mang thai (1 lần/2 lần trở lên)

0,3

0,11-6,21

1,3

0,34-6,21

Tỉnh (Hà Giang, Kon Tum/Hoà Bình, Phú Thọ, Ninh Thuận)

0,4

0,02-0,94

0,7

0,02-9,31

Khoảng cách (xa/gần)

0,3

0,05-0,76

0,9

0,34-4,76

Hài lòng về TYTX (có/không)

1,2

0,28-7,34

5,1

1,34-8,98

Hài lòng về BV huyện (có/không)

1,1

0,24-11,31

11,9

2,51-18,32

Hài lòng về BV tỉnhTYTX (có/không)

0,9

0,34-6,72

6,4

1,87-12,63


Bảng trên cho thấy trên phương trình hồi qui đa biến phân tích một số yếu tố của bà mẹ đến nơi sinh con. Trước khi can thiệp có một số yếu tố ảnh hưởng đến nơi sinh con là cơ sở y tế của các bà mẹ. Những bà mẹ người Kinh, có khả năng hiểu tiếng Việt tốt, các tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hoá tốt hơn, có khoảng cách tới cơ sở y tế gần hơn đẻ tại các cơ sở y tế nhiều hơn các bà mẹ khác. Nhưng sau can thiệp các yếu tố trên đều không ảnh hưởng đến nơi sinh của các bà mẹ tại cơ sở y tế. Tuy nhiên, một số yếu tố khác như mức độ hài lòng của các bà mẹ đối với các cơ sở y tế tuyến huyện lại ảnh hưởng tốt hơn đến việc sinh con của các bà mẹ tại các cơ sở y tế.


Bảng 3. 38. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến cán bộ y tế đỡ đẻ

Các yếu tố

Trước can thiệp

Sau can thiệp

OR

95% CI

OR

95% CI

Tuổi (=<25/>25)

0,7

0,02-9,31

0,9

0,56-6,43

Dân tộc (Kinh/dân tộc)

6,2

1,32-14,54

1,1

0,24-5,36

Khả năng nói tiếng Việt (không tốt/ tốt)

3,1

1,46-9,56

1,2

0,47-5,64

Lần mang thai (1 lần/2 lần trở lên)

1,1

0,04-9,67

1,1

0,08-7,12

Tỉnh (Hà Giang, Kon Tum/Hoà Bình, Phú Thọ, Ninh Thuận)

0,3

0,07-0,87

0,9

0,21-7,12

Khoảng cách (xa/gần)

0,2

0,05-0,09

1,5

0,26-7,34

Hài lòng về TYTX (có/không)

0,7

0,12-9,21

2,9

1,12-5,74

Hài lòng về BV huyện (có/không)

1,1

0,39-8,44

2,6

1,09-5,79

Hài lòng về BV tỉnhTYTX (có/không)

1,3

0,45-7,31

3,5

1,15-8,90

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 16/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí