Điều Kiện Để Đảm Bảo Tài Chính Cho Bảo Hiểm Xã Hội.



và trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp [40, tr.43]. Đảm bảo chi trả các chế độ BHXH bao gồm các nội dung sau.

Một là, đảm bảo chi trả kịp thời, đầy đủ các chế độ BHXH, cụ thể là.

Đảm bảo chi đúng đối tượng, tránh tình trạng lạm dụng, trục lợi BHXH làm thất thoát quỹ dẫn đến sự mất công bằng giữa các đối tượng tham gia. Để đảm bảo chi đúng đối tượng, cần phải thực hiện tốt công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH, quản lý sự biến động do di chuyển, tử vong, hết thời gian hưởng của từng đối tượng hưởng BHXH. Kịp thời điều chỉnh tăng, giảm và lập danh sách chi trả hàng tháng để làm căn cứ chi BHXH. Quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả và quản lý chặt chẽ,khoa học các biến động về tăng, giảm đối tượng hưởng trợ cấp BHXH. Đối với các biến động tăng thì phải cập nhật hàng tháng tại cơ quan BHXH. Đối với các biến động giảm thì phải từ cơ sở báo lên. Riêng đối với đối tượng hưởng trợ cấp mất sức lao động, cần phải quản lý chặt chẽ các biến động tăng, giảm của nhóm đối tượng này, bởi vì nhóm đối tượng này được chia thành nhiều nhóm, dài hạn, có thời hạn, hoặc tiếp tục hưởng theo quy định. Muốn vậy, phải rà soát hồ sơ, phân loại danh sách đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng theo thời gian ngừng trợ cấp. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch cắt, giảm và thông báo hàng quý cho những người sắp hết hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động và thông báo hàng năm đối với trẻ em hưởng tuất đủ 15 tuổi trở lên đang đi học về thời gian hưởng còn lại trước khi cắt chế độ, yêu cầu những đối tượng hưởng chế độ tử tuất định kỳ 6 tháng 1 lần phải đến khai báo về tình hình hiện tại, tránh tình trạng người hưởng chế độ tuất đã chết hoặc hết tiêu chuẩn hưởng tuất nhưng quỹ BHXH vẫn chi trả. Phải giám sát chặt chẽ đối với bảo hiểm thất nghiệp, tránh tình trạng NLĐ lạm dụng những kẽ hở của chính sách bảo hiểm thất nghiệp để trục lợi.

Đảm bảo chi trả kịp thời, khi người tham gia BHXH chẳng may gặp rủi ro làm mất hoặc giảm thu nhập, BHXH phải kịp thời tiến hành các thủ tục, lập hồ sơ và xét để chi trả trợ cấp cho họ, nhanh chóng giúp họ sớm ổn định cuộc sống, đối với chi trả lương hưu, cũng nên chi trả kịp thời vào thời điểm đầu mỗi tháng cho NLĐ.

Hai là, đảm bảo chặt chẽ, công bằng về điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm

xã hội.



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Để ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia BHXH và để hạn chế sự lạm dụng về BHXH, trong các chế độ BHXH đều quy định các điều kiện hưởng BHXH chặt chẽ. Ví dụ, ở một số nước, điều kiện để hưởng chế độ chăm sóc y tế có quy định rõ nếu sự việc ốm đau là hậu quả của việc tự hủy hoại sức khỏe hoặc dùng các chất kích thích, chất gây nghiện sẽ không được hưởng quyền lợi từ chế độ này. Hoặc điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp quy định sẽ không trả trợ cấp thất nghiệp cho những người lần đầu tiên đi tìm việc làm mà chưa tìm được việc làm. NLĐ cũng sẽ không nhận được trợ cấp TNLĐ - BNN nếu như thương tật lao động là do NLĐ phạm tội cố ý hoặc do hành vi sai trái nghiêm trọng gây nên. Để tránh lạm dụng chế độ trợ cấp thai sản, có thể bổ sung quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản là phải có khoảng thời gian tham gia BHXH tối thiểu, gọi là thâm niên BHXH. Thời gian này được quy định theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Để tránh lạm dụng chế độ trợ cấp thương tật và đảm bảo công bằng khi thụ hưởng, một số nước quy định điều kiện hưởng là phải có đủ thâm niên 15 năm tham gia BHXH. Nếu trong thời gian hưởng trợ cấp thương tật, NLĐ có hoạt động kinh tế mang lại nguồn thu nhập thì hoạt động trợ cấp sẽ bị đình chỉ. Người lao động cũng sẽ không nhận được trợ cấp nếu tại thời điểm nhận trợ cấp mà người đó không có mặt trên lãnh thổ quốc gia, hoặc đang trong thời gian thi hành án..v..v. Điều kiện hưởng BHXH là tập hợp các quy định của pháp luật làm cơ sở pháp lý để người lao động hoặc thành viên gia đình họ được hưởng BHXH. Việc quy định điều kiện hưởng BHXH ở từng quốc gia cũng khác nhau phụ thuộc vào từng chế độ BHXH cụ thể. Việc quy định điều kiện hưởng BHXH bao gồm: đặc điểm nhân khẩu học, điều kiện lao động và môi trường lao động, điều kiện kinh tế - xã hội và quan hệ tài chính BHXH.

Ba là, mức hưởng trợ cấp các chế độ BHXH phải phải đảm bảo chi tiêu trung bình, đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ khi họ chẳng may gặp rủi ro làm giảm thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, khi hết tuổi lao động, khi thất nghiệp.

Đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội Việt Nam - 6

Mức hưởng trợ cấp BHXH được quy định cho từng loại trợ cấp BHXH. Việc quy định mức trợ cấp BHXH dựa trên cơ sở các nguyên tắc căn bản sau.



- Mức trợ cấp BHXH chỉ được xem là khoản đảm bảo chi tiêu trung bình,

đảm bảo mức sống tối thiểu cho người hưởng trợ cấp.

- Mức hưởng trợ cấp BHXH thấp hơn mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH lúc làm việc. Nguyên tắc này nhằm khuyến khích NLĐ làm việc và không ỷ lại vào chế độ trợ cấp. Ví dụ, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là bằng 50% thu nhập trước đó của NLĐ, nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Đồng thời để tránh lạm dụng chế độ trợ cấp và khuyến khích NLĐ tích cực tìm kiếm việc làm, mức trợ cấp thất nghiệp không được thay thế toàn bộ thu nhập trước đó.

- Mức hưởng trợ cấp BHXH thường có quan hệ tỷ lệ với mức tiền lương, tiền công hoặc thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH. Với cùng điều kiện so sánh, mức hưởng trợ cấp BHXH của người đóng BHXH nhiều hơn sẽ lớn hơn.

Về thời gian hưởng trợ cấp BHXH cũng không giống nhau ở các chế độ. Trừ những chế độ BHXH có tính dài hạn thì nhìn chung thời gian hưởng trợ cấp BHXH ngắn hạn thường căn cứ vào khoảng thời gian để người lao động có thể phục hồi được khả năng lao động hoặc tìm được việc làm.

Cơ sở xác định mức trợ cấp BHXH và độ dài thời gian hưởng BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: mức độ đóng góp cho xã hội, mức độ giảm hoặc mất khả năng lao động. Ví dụ, Công ước 102 quy định thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp là 13 tuần trong thời kỳ 1 năm. Công ước 168 mở rộng thêm thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp là 26 tuần cho mỗi kỳ thất nghiệp hoặc 39 tuần trong mỗi giai đoạn 24 tháng. Trợ cấp ốm đau được chi trả định kỳ hàng tuần hoặc hàng tháng trong toàn bộ thời gian tham gia người BHXH bị ốm đau nhưng không quá 26 tuần trong 1 năm. Trường hợp NLĐ tham gia BHXH bị mất sức lao động, thời gian chi trả trợ cấp tối thiểu là 52 tuần. Đối với một số quốc gia như ở Việt Nam quy định thời gian nhận trợ cấp ốm đau là 13 tuần trong trường hợp ốm đau bình thường và 26 tuần trong trường hợp bị mất sức lao động. [51]

Thứ hai, chi quản lý quỹ BHXH

Là khoản chi để tổ chức BHXH chuyên trách thực hiện các nghiệp vụ của mình như: chi lương và các khoản có tính chất lương cho cán bộ; chi nghiệp vụ



chuyên môn; chi quản lý hành chính và chi mua sắm sửa chữa tài sản cố định. Thông thường chi phí quản lý quỹ được tính bằng một tỷ lệ so với tổng thu từ đóng góp của các bên tham gia đóng góp và được điều chỉnh theo từng thời kỳ và theo sự phát triển của quỹ.

Tỷ lệ chi phí quỹ so với tổng thu đóng góp của quỹ cũng phụ thuộc vào quy mô của quỹ BHXH và năng lực quản lý quỹ. Quy mô của quỹ nhỏ hoặc quỹ đang trong giai đoạn mới hình thành và phát triển thì chi phí quản lý có thể chiếm tỷ lệ cao, nhưng sẽ giảm đi nếu quy mô của quỹ gia tăng cùng với số người tham gia tăng lên. Tăng năng lực quản lý đồng nghĩa với việc tăng hiệu quả quản lý hay giảm chi phí hành chính do tăng năng suất lao động của đội ngũ cán bộ cũng góp phần giảm chi phí hành chính.

Thứ ba, chi đầu tư quỹ. Sử dụng một phần dư của quỹ đầu tư tăng trưởng quỹ là một nội dung quan trọng của sử dụng quỹ BHXH. Mục đích này chỉ thực hiện được khi quỹ có thặng dư và an toàn về tài chính.

Quỹ BHXH

Chi khác

Chi quản lý

Chi đầu tư

Chi dự phòng

Như vậy, từ sự phân tích trên có thể thấy tổng chi BHXH được biểu thị qua sơ đồ sau:


Chi trả các chế độ BHXH


Sơ đồ 2.2: Nội dung chi quỹ BHXH


2.2.2.3. Quỹ bảo hiểm xã hội duy trì được sự cân đối, ổn định trong dài hạn.

Đảm bảo quỹ duy trì được sự cân đối, ổn định trong dài hạn có nghĩa là phải đảm bảo tình bền vững về tài chính cho BHXH, đảm bảo thu phải luôn lớn hơn chi và có kết dư quỹ. Vì vậy, để quỹ BHXH duy trì được sự cân đối, ổn định trong dài



hạn thì ngoài việc đảm bảo thu từ các đối tượng tham gia BHXH thì cần phải tích cực khai thác các nguồn thu khác như: thu từ viện trợ, từ đóng góp của các cá nhân và các tổ chức trong và ngoài nước, thu từ hoạt động đầu tư quỹ.

Đối với hoạt động đầu tư quỹ phải đảm bảo sao cho đầu tư quỹ luôn được an toàn và có sinh lợi nhuận, đảm bảo được nguồn tài chính bền vững để thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.

Quá trình đem số dư tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH đầu tư sinh lời phải tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc về an toàn và hiệu quả để hạn chế tối đa rủi ro. Bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm và mục đích hoạt động của quỹ BHXH, hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi còn phải đảm bảo nguyên tắc thanh khoản và lợi ích xã hội.

Nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH là an toàn (không chỉ bảo toàn được số vốn đầu tư mà còn phải giữ được giá trị thực sự của vốn), nhằm trước hết là bảo toàn được quỹ, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động về chi trả BHXH. Nếu hoạt động đầu tư để xảy ra tình trạng không an toàn, gánh nặng sẽ đè lên vai Nhà nước và nguy hại hơn là dẫn đến sự mất ổn định về xã hội - chính trị, mất lòng tin của người dân. Do hậu quả của việc tổn thất quỹ BHXH là rất nghiêm trọng nên quỹ BHXH không được đầu tư vào lĩnh vực rủi ro cao, mạo hiểm lớn, không nên tập trung đầu tư vào một ít dự án hoặc công trình, mà nên phân tán đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau (cả trong nước và nước ngoài) để giảm thiểu rủi ro trong đầu tư. Ngoài ra, quỹ BHXH cần được Chính phủ ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao.

Nguyên tắc thứ hai khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là tính hiệu quả. Nguyên tắc này rất quan trọng vì nếu đầu tư không sinh lời thì không thể thực hiện được mục tiêu tăng trưởng quỹ, và ảnh hưởng tới độ an toàn của quỹ cũng như khả năng chi trả trong tương lai. Để thực hiện được nguyên tắc này, cần thiết phải xác định được danh mục đầu tư, các lĩnh vực đầu tư chủ yếu. Đối với từng dự án đầu tư, phải đánh giá chính xác nhất hiệu quả kinh tế dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu khoa học, từ đó mới có được quyết định đầu tư đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao.



Nguyên tắc thứ ba là phải chú trọng đến tính thanh khoản của dòng vốn (dễ luân chuyển vốn). Quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ để chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Do vậy, đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền mặt để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chi trả cho người lao động.

2.2.2.4. Đảm bảo công bằng đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.

Công bằng trong BHXH có nghĩa là BHXH dựa trên nguyên tắc người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi mình được hưởng BHXH. Thông qua hoạt động BHXH, quỹ BHXH tham gia vào việc phân phối lại thu nhập xã hội giữa những NLĐ thế hệ trước với thế hệ sau, giữa những ngành nghề sản xuất, giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp, giữa các giới, giữa những người may mắn và không may mắn.. góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Cụ thể là

- Đảm bảo công bằng về tham gia và thụ hưởng BHXH. Mọi người NLĐ đều có quyền tham gia BHXH. Thực hiện nguyên tắc này sẽ góp phần đảm bảo quyền bình đẳng giữa những NLĐ trên phương diện xã hội nhất là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của Nhà nước. Vì vậy mà ngày nay, BHXH trở thành quyền cơ bản của NLĐ. Quyền tham gia BHXH không phân biệt về khu vực kinh tế, ngành nghề, giới tính, có tham gia quan hệ lao động hay không. Tuy nhiên, NLĐ được tham gia và hưởng BHXH ở mức nào, trong những trường hợp nào hay nói cách khác, khả năng chia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội và thể chế chính trị của mỗi quốc gia.

- Mọi NLĐ đều bình đẳng trong nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH. Điều này có nghĩa là mọi NLĐ trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. NLĐ khi gặp rủi ro không mong muốn và không hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn được nhiều người khác hỗ trợ mình, san sẻ rủi ro với mình, thì



bản thân NLĐ phải có trách nhiệm tham gia đóng góp vào BHXH để tự bảo vệ cho mình cũng như san sẻ rủi ro với mọi người.

- NSDLĐ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH cho NLĐ mà họ thuê mướn theo đúng luật pháp quy định. Khi NLĐ làm việc bình thường thì phải trả lương thỏa đáng theo đúng giá trị sức lao động cho họ, khi họ chẳng may gặp rủi ro, ốm đau, TNLĐ-BNN thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Có như vậy NLĐ mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho đơn vị sử dụng lao động. Nếu công tác quản lý thu BHXH yếu kém, để xảy ra tình trạng các doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ và dẫn đến sự mất công bằng trong BHXH.

2.2.3. Điều kiện để đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội.

2.2.3.1. Vai trò của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội.

Thứ nhất, Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội

Hệ thống pháp luật BHXH là cơ sở pháp lý cho hoạt động BHXH của một nước bao gồm luật, các văn bản dưới luật về BHXH. Luật là những văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp lý cao nhất và là công cụ quản lý vững chắc nhất mà mọi tổ chức, cá nhân phải tuân thủ. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật về BHXH và ban hành việc thực hiện chúng trong phạm vi cả nước.

Việc xây dựng hệ thống pháp luật về BHXH có khác nhau tùy thuộc vào tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi nước. Các qui định luật về BHXH có thể được đặt trong một luật chung như: Luật lao động, Luật công chức, Luật dân sự, hay Luật quân nhân, hoặc ban hành riêng luật về BHXH để điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến hoạt động BHXH. Luật BHXH do Quốc hội thông qua và có phạm vi áp dụng trong cả nước. Những nước có tổ chức theo Bang thì Luật có thể do Quốc hội Bang thông qua nhưng không được trái với các điều luật của Liên bang. Ngoài luật về BHXH, Nhà nước còn ban hành các văn bản dưới luật về BHXH nhằm giải thích rõ, hướng dẫn cụ thể việc thi hành về một số nội dung, vấn đề có liên quan đến lĩnh vực BHXH. Trong quá trình vận động và phát triển, Pháp luật



BHXH cũng sẽ có những phát sinh chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, Nhà nước luôn phải tự điều chỉnh, bổ sung các nội dung, các điều khoản của Luật BHXH cho phù hợp đảm bảo mục tiêu giữ vững ổn định xã hội trong sự phát triển bền vững

Thứ hai, Nhà nước xây dựng các chính sách, chế độ và các văn bản định hướng cơ bản cho các hoạt động BHXH.

Để hoạt động tài chính có hiệu quả, phục vụ cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, Nhà nước quy định về mức đóng, mức hưởng BHXH quy định trách nhiệm của mỗi bên khi tham gia BHXH; quy định các chế độ và quản lý quỹ BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm toán. Nhà nước định hướng đầu tư để tăng trưởng quỹ BHXH. Lĩnh vực đầu tư phải sinh lợi đồng thời phải có độ an toàn cao, thậm chí được bảo hộ để tránh rủi ro. Chính vì vậy, hoạt động đầu tư quỹ BHXH ở nhiều nước thường do hội đồng quản lý BHXH quyết định, nhưng Nhà nước vẫn giữ vai trò định hưởng để bảo đảm an toàn cho quỹ BHXH.

Thứ ba, Nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính BHXH, đảm bảo cho các bên tham gia BHXH thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, đồng thời đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ tham gia BHXH. Theo quy định của pháp luật, NLĐ phải có trách nhiệm đóng BHXH trên cơ sở tiền lương, thu nhập của mình, đồng thời NSDLĐ cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ mà mình thuê mướn. Nhưng trên thực tế, NSDLĐ thường có hành vi lẩn tránh trách nhiệm này như: khai giảm số lao động, khai giảm tiền lương... Vì vậy, thông qua các hoạt động thanh tra, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan sẽ buộc người lao động và người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của mình với cơ quan BHXH.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chế độ BHXH đối với NLĐ. Đây là hoạt động rất quan trọng của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực BHXH. Hoạt động này nhằm đảm bảo cho NLĐ khi được hưởng chế độ BHXH phải được hưởng

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 25/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí