Những Vấn Đề Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu Về Đảm Bảo Tài Chính Cho Bảo Hiểm Xã Hội.



giai đoạn 1995- 1998. Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ bảo hiểm hưu trí như: hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH để đảm bảo thu đúng, thu đủ và thu kịp thời đối với các đơn vị, cá nhân tham gia BHXH; tổ chức có hiệu quả quá trình chi trả lương hưu và các khoản chi trả khác liên quan đến người về hưu đúng quy định và mức về thời gian chi trả; quản lý và đảm bảo sự an toàn và phát triển quỹ bảo hiểm hưu trí; xây dựng và hoàn thiện phương án thu để hình thành quỹ hưu trí đủ trang trải cho mọi chi phí cho chế độ hưu trí; phương thức hình thành quỹ; các yếu tố hình thành và chi dùng quỹ; tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thu- chi, quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội; tăng cường công tác phân tích, dự bảo tài chính, đặc biệt là thẩm định tài chính đối với các phương án đầu tư của quỹ. Tăng cường quản lý và giám sát cơ chế đầu tư tăng trưởng quỹ.

Ngoài ra, nghiên cứu về vấn đề này còn có một số nghiên cứu khác như: bài viết của tác giả Phạm Đình Thành, Thực trạng quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội và những vấn đề về bảo toàn, đầu tư tăng trưởng quỹ, Hội thảo về cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, tháng 3/2013; bài viết của tác giả Đặng Như lợi; Một số ý kiến về cân đối và chính sách đầu tư bảo toàn, tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội, Hội thảo về cân đối quỹ bảo hiểm xã hội tháng 4/2013.

Những công trình nghiên cứu trên đã hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết của hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Đánh giá một cách toàn diện về quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH ở Việt Nam cũng như sự định lượng và sử dụng quỹ trong hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư tài chínhBHXH và hiệu quả đầu tư tài chính BHXH.Đóng góp những ý tưởng khoa học để xây dựng hệ thống các định chế pháp lý liên quan đến hoạt động tài chính của ngành BHXH. Góp phần trực tiếp vào việc xác định những chiến lược đầu tư tài chính BHXH trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.

1.1.4. Những nghiên cứu về cân đối quỹ BHXH

1. Đề án của TS Đỗ Văn Sinh (2011), Đánh giá hoạt động qũy bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tính toán dự báo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đến



năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Mục đích của đề án là đánh giá tình hình hoạt động của quỹ BHXH, BHYT trong thời gian qua. Dự báo cân đối quỹ BHXH, BHYT đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cân đối, tăng trưởng bền vững cho quỹ BHXH, BHYT.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

2. Đề tài khoa học cấp bộ 2007-01-02, Các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện Luật bảo hiểm xã hội, do TS Phạm Đỗ Nhật Tân làm chủ nhiệm. Mục đích của đề tài làm rõ cơ sở lý luận các yếu tố tác động đến thu - chi và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Đánh giá thực trạng quỹ bảo hiểm xã hội và khả năng cân đối của quỹ trong dài hạn thông qua việc phân tích các tác động từ những quy định mới về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc theo Luật bảo hiểm xã hội và sự tác động mới của việc điều chỉnh tiền lương, tiền công của Nhà nước. Đề tài cũng làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giám sát, quản lý hoạt động thu, chi và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện luật bảo hiểm xã hội.

3. Luận án tiến sĩ của Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.Mục đích nghiên cứu của luận án là hệ thống hóa cơ sở lý luận khảo sát, tổng kết, thưc tiễn, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Làm rõ cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Phân tích đánh giá thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam như; hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chế độ hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội;hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ quản lý quỹ bảo hiểm xã hội; giải pháp đổi mới công tác kiểm tra, giám sát đối với toàn bộ hoạt động quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.

Đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội Việt Nam - 3

4. Đề tài khoa học cấp bộ (2001), Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo sự cân đối ổn định giai đoạn 2000- 2020do TS Đỗ Văn Sinh làm chủ nhiệm. Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH và quỹ BHXH; phân tích thực trạng về quản lý quỹ và cân đối quỹ BHXH ở Việt Nam qua hai giai đoạn (trước



năm 1995 và giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2001); có những đánh giá về chính sách BHXH và tổ chức thực hiện hành chính BHXH nói chung. Thông qua sự phân tích đánh giá, đề tài đã đưa ra các quan điểm, giải pháp, quản lý và cân đối quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn 2000-2020.

Ngoài ra còn có các bài viết: Hệ thống hưu trí Việt Nam- Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện già hóa dân số của tác giả Giang Thanh Long, tháng 4/2004 tại Diễn đàn phát triển Việt nam. Bài viết của tác giả Yves Guesard, FSE, FCIA, HonFIA, Ph.D, Các lộ trình toán tài chính đối với các chế độ bảo hiểm xã hội, tại hội thảo CSA –PIAP về chính sách bảo hiểm xã hội, tháng 4/2005. Bài viết cũng của tác giả Yves Guesard, FSE, FCIA, HonFIA, Ph.D; Quản lý tài sản của các quỹ bảo hiểm xã hội, tại hội thảo CSA –PIAP về chính sách bảo hiểm xã hội tháng 4/2005.

Các bài viết trên đã làm rõ cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến thu- chi và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Tính cân đối, bền vững của quỹ BHXH chịu tác động của các nhân tố như; xu hướng già hóa dân số, những biến động về nhân khẩu học, những cú sốc về kinh tế vĩ mô. Các tác giả cho rằng cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử khác nhau trong chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng của BHXH thuộc các khu vực kinh tế khác nhau. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện luật bảo hiểm xã hội. Các định hướng cải cách nhằm tiến tới đảm bảo tính bền vững trong dài hạn của bảo hiểm xã hội. Để đảm bảo tính cân đối, bền vừng của quỹ bảo hiểm xã hội, hầu hết các tác giả đều đưa ra gợi ý kiến nghị nên đổi mới mô hình quỹ BHXH.

1.1.5. Những nghiên cứu về cơ chế tài chính BHXH

Các công trình nghiên cứu về cơ chế tài chính BHXH bao gồm: Đề tài khoa học cấp Bộ (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế vận hành và mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hộido TS Nguyễn Thị Lan Hương chủ nhiệm; Đề tài khoa học cấp Bộ (2003), Cơ chế và chính sách tài chính đối với hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam, do Dương Đăng Chinh và Vũ Đình Ánh đồng chủ nhiệm; Đề tài khoa học cấp Bộ (1997), Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện



chính sách BHXH của TS Bùi Văn Hồng. Ngoài ra còn có các bài viết của các tác giả, Agenda for Social security: Challenges for the new congress and the new administration, Social Secutity Advisory Board, Febbruary 2001, Margaret S.Malon (2001). - Facing reality about social security (Đối mặt với những vấn đề của ASXH) The CPA Journal, May 2005, Louis Grumets.YiFeang (1999), Zhigang Xu, RanTao(2004); Nghiên cứu về hệ thống ASXH ở Trung Quốc.

Các nghiên cứu trên đã phân tích, đánh giá và chỉ ra những ưu điểm, cũng như những nhược điểm của từng cơ chế tài chính BHXH đó đề xuất những kiến nghị cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế tài chính BHXH.

1.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội.

Từ tổng quan những công trình nghiên cứu trên có thể thấy, các tác giả đã hệ thống được rất nhiều vấn đề học thuật liên quan đến đảm bảo tài chính cho BHXH. Cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu trên đều đứng trên góc độ quản lý quỹ BHXH và đi sâu phân tích những vấn đề như thu, chi và đầu tư quỹ BHXH, cân đối quỹ BHXH, cơ chế tài chính BHXH nhằm đảm bảo thu phải đủ chi và có kết dư quỹ.

Đến nay chưa có công trình khoa học nào đưa ra được đầy đủ khái niệm đảm bảo tài chính cho BHXH và nghiên cứu một cách có hệ thống đảm bảo tài chính cho BHXH dưới góc độ Kinh tế chính trị học. Đó là vấn đề thu và sử dụng quỹ BHXH như thế nào để vừa đảm bảo duy trì sự cân đối, ổn định và tăng trưởng của quỹ BHXH, vừa đảm bảo sự công bằng đối với các đối tượng tham gia BHXH, góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; các điều kiện để thực đảm bảo tài chính cho BHXH. Đó là những khoảng trống để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu.

Về phạm vi nghiên cứu, các công trình trình nghiên cứu từ trước đến nay mới chỉ tập trung vào loại hình BHXH bắt buộc, chưa đề cập nhiều đến BHXH tự nguyện và BHTN. Đây sẽ là một khoảng trống để luận án tiếp tục khảo sát, nghiên cứu.

Như vậy, có thể khẳng định những nghiên cứu của luận án không trùng lặp với những công trình nghiên cứu trước.


CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ ĐẢM BẢO TÀI CHÍNH CHO BẢO HIỂM XÃ HỘI

2.1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội và tài chính bảo hiểm xã hội.

2.1.1. Bảo hiểm xã hội: Khái niệm, bản chất và chức năng

2.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội

Con người muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải có cái ăn, mặc, ở, đi lại... Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, họ phải lao động để tạo ra của cải vật chất. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội càng văn minh hơn. Việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường, mà trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, TNLĐ-BNN hoặc khi về già không còn khả năng lao động, khi chẳng may người lao động bị chết, con cái mất nơi nương tựa. Mặt khác, để bảo toàn nòi giống, duy trì lực lượng lao động trong tương lai cho xã hội, những người phụ nữ còn phải làm nhiệm vụ sinh và nuôi con, nghỉ chăm sóc lúc con đau ốm. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh, có đơn vị kinh tế bị đình trệ sản xuất hoặc phá sản, người lao động thất nghiệp. Lúc này các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi thậm chí còn tăng lên và xuất hiện một số nhu cầu mới như cần được khám chữa bệnh, tai nạn thương tật cần có người chăm sóc.... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống con người đã tìm ra nhiều biện pháp khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước.v..v.. Tuy nhiên, những cách này hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.

Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ biến, lúc đầu người chủ sử dụng lao động chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về



sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, thai sản... Trong thực tế các trường hợp trên có thể không xảy ra và người chủ sử dụng lao động không phải chi đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra những khoản tiền lớn dù không muốn. Điều này tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng gay gắt trên quy mô rộng và có tác động xấu đến nhiều mặt của đời sống kinh tế- xã hội.

Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước đã đứng ra đóng vai trò trung gian trong việc điều hòa mâu thuẫn bằng cách huy động sự đóng góp cả từ phía chủ và thợ, bản thân Nhà nước cũng tham gia hỗ trợ một phần để hình thành nên một quỹ tài chính với mục đích bảo vệ quyền lợi của cả giới chủ và giới thợ. Đây chính là lý do dẫn đến sự ra đời của hình thức đóng góp, san sẻ rủi ro đầu tiên trong xã hội. Như vậy, việc tạo lập một quỹ BHXH là cần thiết để đảm bảo nền kinh tế- xã hội phát triển bình thường. Có nhiều khái niệm về BHXH theo các góc độ khác nhau như.

Từ giác độ pháp luật: BHXH là một định chế bảo vệ NLĐ sử dụng nguồn đóng góp của mình, đóng góp của NSDLĐ (nếu có) và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho NLĐ được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc NLĐ bị chết.

Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật.

Theo tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labour Organization): BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình họ khi NLĐ tham gia BHXH bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động do các sự kiện bảo hiểm xảy ra, trợ giúp các dịch vụ việc làm, chăm sóc y tế cho họ trên cơ sở quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp, nhằm góp phần ổn định đời sống cho NLĐ và gia đình họ, đảm bảo an sinh xã hội.

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1: BHXH xét về chính trị, kinh tế là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu



nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệptàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

Theo Luật BHXH Việt Nam 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007): BHXH là sự đảm bảo thay thể hoặc bù đắp một phần thu nhập củaNLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH.

Như vậy, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH nhưng tất cả các khái niệm đều có một điểm chung đó là: mục đích của BHXH là góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ khi gặp rủi ro; đối tượng tham gia là NLĐ và NSDLĐ; quỹ BHXH được hình thành từ đóng góp của đối tượng tham gia BHXH và sự hỗ trợ của Nhà nước.

Để có một khái niệm thống nhất trong việc nghiên cứu BHXH tại Việt Nam trên phương diện lý thuyết, BHXH được khái quát như sau: BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đặp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những rủi ro, những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. [39, tr.50]

2.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội

Bản chất của BHXH là quá trình quản lý và chia sẻ sẻ rủi ro cho thu nhập của NLĐ, thực hiện mục tiêu góp phần đảm bảo đời sống cho họ và gia đình họ, thông qua đó đảm bảo an toàn xã hội nói chung. Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức nào đó. Kinh tế càng phát triển thì



BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá khỏi trạng thái kinh tế của mỗi nước. [39, tr.50]

- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH; bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH chỉ có thể là NLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. [39,tr.51]

- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như:ốm đau, TNLĐ-BNN... hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động [39,tr.51]

- Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn có sự hỗ trợ từ phía nhà nước [39, tr.51].

2.1.1.3. Chức năng của bảo hiểm xã hội

BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, vì vậy BHXH có những chức năng cơ bản sau đây:

- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất hoặc giảm khả năng lao động, do mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mọi NLĐ khi hết tuổi lao động đều mất khả năng lao động. Trường hợp mất việc làm hoặc mất khả năng lao độngtạm thời dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập thìNLĐ cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động BHXH. [39,tr.52]

- Thực hiện phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH bao gồm cả người NLĐ và NSDLĐ. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số NLĐ tham gia BHXH khi

Ngày đăng: 25/12/2023