mình; tham gia phiên tòa; yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định; tranh luận tại phiên tòa; đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vẫn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng; được cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa án; có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án; tôn trọng Tòa án, chấp hành nội quy phiên tòa; kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định; đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí theo quy định; chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; được Tòa án thông báo về việc bị khởi kiện; chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; đưa ra yêu cầu phản tố hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn; có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền lợi cho đương sự là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự, trên cơ sở thỏa thuận ý chí giữa hai bên thông qua văn bản ủy quyền. Do đó, người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự trong phạm vi các quyền, nghĩa vụ mà đương sự đã ủy quyền có được theo quy định pháp luật. Người đại diện theo ủy quyền thực hiện hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền thì phải tự chịu trách nhiệm về phần vượt quá đó. Theo quy đi ̣nh taị Điều 74 BLTTDS thì “N gười đại
diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền”. Để đảm bảo hoạt động của người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng không xâm phạm đến lợi ích của đương sự được đại diện trong trường hợp công nhận thoả thuận, từ bỏ, thay đổi việc tham gia tố tụng v.v…pháp luật tố tụng dân sự số nước còn quy định phải được sự đồng ý của đương sự [1, tr.121].
Trong thực tiễn, đương sự khi làm văn bản ủy quyền tham gia tố tụng thường không liệt kê cụ thể các công việc mà người đại diện theo ủy quyền được làm, không mô tả được hết các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự mà người đại diện theo ủy quyền có thể nhân danh mình để thực hiện. Mặt khác, trong quá trình tố tụng dân sự, cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể triệu tập đương sự khi cần thiết để làm rõ vấn đề cần chứng minh mặc dù họ đã có người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng. Đương sự khi đã tham gia tố tụng thì luôn luôn muốn giành phần thắng về phía mình, luôn tìm cách để có thể bảo vệ tốt nhất, tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi đã ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng, tức là đương sự đã có sự lựa chọn, tin tưởng tuyệt đối vào người có thể đại diện cho mình, nhân danh mình và bảo vệ tối đa quyền lợi chính đáng cho mình, vì vậy họ thường trao cho người đại diện của mình tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng mà họ có được; vì vậy trong văn bản ủy quyền thường ghi nội dung ủy quyền là: “Ông A được quyền thay mặt tôi tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân (có thẩm quyền) trong vụ án thụ lý số ….Ông A được toàn quyền quyết định và định đoạt mọi vấn đề liên quan đến vụ kiện, các ý kiến và chữ ký của ông A đều có giá trị pháp lý như ý kiến và chữ ký của tôi”.
Tùy theo địa vị tố tụng của đương sự ủy quyền, người đại diện theo ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Một người có thể là người đại theo ủy quyền trong tố tụng dân sự cho nhiều đương sự khác nhau, nếu quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự này không đối lập nhau. Ví dụ: Tác giả luận văn này trong quá trình hành nghề luật sư là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Nguyễn Đăng Minh, và cũng là người đại diện theo ủy quyền cho các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông bà Nguyễn Đăng Ngoạn, Nguyễn Đăng Linh, Nguyễn Thị Hà và Nguyễn Thị Lam Phương (đều sinh sống tại Mỹ), trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế tại 480 Lê Duẩn, phường Thuận Hòa, thành phố Huế, vụ án thụ lý số 03/2008/TLST- DS ngày 04/4/2008 tại TAND tỉnh Thừa Thiên Huế. Các ông bà Nguyễn Đăng Ngoạn, Nguyễn Đăng Linh, Nguyễn Thị Hà và Nguyễn Thị Lam Phương đều có yêu cầu độc lập đòi chia di sản thừa kế của bố để lại là ông Nguyễn Đăng Trác.
2.3. Các quy định về nội dung và hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự
2.3.1. Các quy định về nội dung ủy quyền trong tố tụng dân sự
Theo khoản 3 Điều 73 BLTTDS thì người đại diện theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự là người đại diện ủy quyền trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, khi đối chiếu với Mục 12 của BLDS 2005 (quy định về Hợp đồng ủy quyền) thì không có quy định cụ thể về nội dung ủy quyền là những nội dung gì. Điều 581 BLDS 2005 quy định “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền…”, nhưng sự thỏa thuận đó gồm những công việc gì, giới hạn cụ thể ra sao thì pháp luật chưa có quy định chi tiết.
Để được Tòa án chấp nhận nội dung văn bản ủy quyền, tránh trường hợp phải làm lại mất thời gian, tốn kém công sức và tiền bạc (nhất là trong trường hợp đương sự ở nước ngoài), các bên liệt kê công việc ủy quyền càng cụ thể càng tốt. Tuy nhiên trong thực tế không như vậy, mặc dù văn bản ủy quyền đảm bảo quy định về hình thức là được công chứng, chứng thực nhưng
Có thể bạn quan tâm!
- Sơ Lược Về Sự Phát Triển Các Quy Định Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự Ở Việt Nam Sau 1945
- Các Quy Định Về Người Ủy Quyền Và Người Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Các Quy Định Về Người Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Các Quy Định Về Thủ Tục Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Về Nội Dung Và Phạm Vi Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
khi người được ủy quyền thực hiện công việc theo nội dung ủy quyền thì có thể sẽ không được Tòa án chấp nhận. Đã có nhiều trường hợp người Việt nam định cư ở nước ngoài về nước khởi kiện chia thừa kế nhà đất là di sản của bố mẹ để lại, do hạn chế về thời gian và hiểu biết về pháp luật Việt Nam nên họ ủy quyền cho người thân ở trong nước hoặc luật sư làm việc này, văn bản ủy quyền được UBND xã, phường chứng thực hẳn hoi với nội dung “Người được ủy quyền được toàn quyền quyết định về việc kiện và yêu cầu chia thừa kế của bố mẹ để lại”. Thế nhưng khi họ đã về nước, người được ủy quyền ở trong nước làm đơn khởi kiện thì Tòa án không chấp nhận với lý do đơn khởi kiện phải do đích danh người đã ủy quyền ký mới có giá trị. Có ý kiến cho rằng không chấp nhận việc ủy quyền như vậy, buộc đương sự phải làm lại văn bản ủy quyền với phạm vi ủy quyền nêu rõ: chỉ được ủy quyền tham gia tố tụng, không được ủy quyền khởi kiện vì luật đã có quy định đơn kiện phải do người khởi kiện ký. Chúng tôi cho rằng quan điểm này chưa hợp lý cho lắm, bởi vì quyền khởi kiện cũng là một quyền tố tụng. Người khởi kiện là người cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, pháp luật trao cho họ quyền được thực hiện các công việc để bảo vệ quyền lợi của mình. Khi không có điều kiện hoặc không muốn thực hiện các hoạt động đó thì họ có thể ủy quyền cho người khác làm thay, tất cả các quyền tố tụng trên không bị bất cứ một điều luật nào cấm đoán việc ủy quyền [6, tr.35].
Hoặc sau đây là ví dụ khác: Trong vụ kiện chia thừa kế mà bà H và ông Th (đều ở nước ngoài) được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bà H và ông Th đều ủy quyền cho ông K tham gia tố tụng với nội dung ủy quyền như sau “…ông K được nhân danh bà H và ông Th đến Tòa án tham gia tố tụng trong vụ kiện và toàn quyền quyết định, định đoạt mọi vấn đề trong vụ kiện trên; đồng thời yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo pháp luật Việt Nam…”. Có hai quan điểm khác nhau về nội dung ủy quyền của bà H và ông Th cho Luật sư K:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nội dung ủy quyền của bà H và ông Th ủy quyền cho ông K là không phù hợp với quy định của pháp luật, mà cụ thể là ông K không thể thay mặt bà H và ông Th yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo quy định của pháp luật được, bởi bà H và ông Th được xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện và một khi có yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản của cha mẹ để lại (mà cụ thể là yêu cầu độc lập) thì về thủ tục được thực hiện theo quy định về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể là trong trường hợp này bà H và ông Th phải làm đơn khởi kiện đồng thời ký tên vào đơn khởi kiện của mình theo quy định của Điều 164 Bộ luật tố tụng Dân sự. Do đó, ông K không thể đại diện bà H và ông Th yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ H và M để lại theo quy định của pháp luật được, cho nên nội dung ủy quyền này không hợp pháp.
+ Quan điểm 2: Nội dung ủy quyền của bà H và ông Th với ông K là không vi phạm pháp luật, theo quy định tại khoản 1 Điều 139 “Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây được gọi là người đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”, theo đó ông K đã nhân danh bà H và ông Th yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật và công việc này vẫn nằm trong phạm vi ủy quyền của các bên. Hơn nữa, việc ông K làm người đại diện theo ủy quyền cho bà H và ông Th không thuộc trường hợp không được làm người đại diện (Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự). Do đó, giao dịch bằng hình thức hợp đồng ủy quyền giữa bà H, ông Th với ông K không vi phạm pháp luật nên ông K được quyền nhân danh bà H và ông Th đến Tòa án yêu cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật, trong trường hợp ông K vượt quá phạm vi ủy quyền thì phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 146 Bộ luật Dân sự [9].
Đa số các trường hợp khi ủy quyền cho luật sư tham gia tố tụng, đương
sự thường ủy quyền toàn bộ cho đến khi có được bản án, quyết định cuối cùng có hiệu lực. Nội dung ủy quyền ghi là: “Bên đại diện theo ủy quyền được toàn quyền và nhân danh bên ủy quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ việc cho đến khi có được quyết định hoặc bản án có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Trong trường hợp này, sau khi có bản án sơ thẩm thì luật sư A với tư cách người đại diện theo ủy quyền làm đơn kháng cáo (trong thời hạn kháng cáo). Tuy nhiên do chưa có quy điṇ h thống nhất về
nôi
dung ủy quyền như thế nào nên có hai luồng ý kiến khác nhau hiện nay về
tính hợp lệ của việc kháng cáo của luật sư A:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần phải làm lại văn bản ủy quyền, trong đó có thể hiện nội dung ủy quyền kháng cáo, thì việc kháng cáo của luật sư A mới được coi là hợp lệ. Tiểu mục 1.8 Mục 1 Phần I Nghị quyết 05/2006/NQ- HĐTP đã hướng dẫn cụ thể: “Việc uỷ quyền được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 Phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm”.
- Ý kiến thứ hai thì ngược lại, luật sư A có quyền kháng cáo bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cần chấp nhận đơn kháng cáo của luật sư A mà không cần phải yêu cầu làm lại văn bản ủy quyền có thể hiện nội dung ủy quyền kháng cáo. Trong văn bản ủy quyền lần đầu đã ghi rõ nội dung ủy quyền là toàn bộ các công việc liên quan đến việc giải quyết vụ việc cho đến khi có được quyết định, bản án cuối cùng có hiệu lực của Tòa án. Kháng cáo cũng chỉ là một trong các công việc đó mà thôi, chỉ trong trường hợp trong văn bản ủy quyền lúc đầu không ghi rõ ủy quyền toàn bộ, hoặc ghi rõ từng nội
dung ủy quyền cụ thể nhưng không có nội dung ủy quyền kháng cáo, thì lúc đó mới làm lại văn bản ủy quyền có nội dung ủy quyền kháng cáo.
2.3.2. Các quy định về hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự
Phạm vi ủy quyền giới hạn quyền và trách nhiệm của bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Trong tố tụng dân sự, việc người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện một số công việc vượt quá nội dung văn bản ủy quyền có thể sẽ gây hậu quả bất lợi cho các đương sự; bản án, quyết định của Tòa án có thể bị sửa hoặc hủy. Do vậy, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ chấp nhận các công việc mà người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Cơ sở xác định trách nhiệm của các bên chính là văn bản ủy quyền.
Điều 151 BLDS 1995 trước đây quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Tuy nhiên BLDS 2005 quy định có khác tại khoản 2 Điều 142 “Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải lập thành văn bản”. Trong đời sống có thể thấy có
những quan hệ đaị diên
theo ủy quyền được xác lập, thưc
hiên
không cần phải
bằng văn bản, có thể bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, thực tế cũng chỉ ra rằng, hầu như không có sự ủy quyền nào thể hiện bằng lời nói, hành vi được thừa nhận để có giá trị chứng minh trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, quan hệ ủy quyền thường xuyên vẫn được xác lập bằng văn bản dưới các hình thức là giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền (ngoài ra còn có hình thức thông qua Giấy giới thiệu).
Trong tố tụng dân sự thì Tòa án chỉ chấp nhận việc ủy quyền bằng văn bản được công chứng, chứng thực hợp lệ. Điều 74 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền”. Do là hoạt động tố tụng mang tính công quyền, nhân danh nhà nước, mỗi quyết định của mình có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều người nên Tòa án thường
phải xem xét kỹ việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự có được hợp lệ về nội dung phạm vi ủy quyền, về thời hạn ủy quyền, về hình thức văn bản ủy quyền, thậm chí về nhân thân người đại diện theo ủy quyền v.v..., tránh trường hợp sau khi thấy bản án, quyết định của Tòa án gây bất lợi cho mình thì đương sự quay lại phản đối, không chấp nhận các ý kiến, công việc của người đại diện theo ủy quyền đã thực hiện trong quá trình tố tụng. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản hướng dẫn cụ thể về hình thức văn bản ủy quyền “Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc của cán bộ Tòa án được Chánh án Tòa án phân công” [22].
Tham luận của Tòa dân sự TANDTC tại hội nghị tổng kết công tác
ngành Tòa án năm 2009 ghi rõ: “Việc ủy quyền tham gia tố tụng phải được thể hiện bằng văn bản. Trong trường hợp đương sự gửi văn bản ủy quyền đến Tòa án, để đảm bảo nội dung văn bản ủy quyền là có thực, đúng ý chí của người ủy quyền và làm căn cứ để Tòa án xử lý về tố tụng thì văn bản ủy quyền cần có công chứng hoặc chứng thực. Trong trường hợp nội dung ủy quyền
không rõ ràng thì Tòa án phải yêu cầu họ thể hiện thật rõ nội dung và phạm vi ủy quyền. Tòa án chỉ xem xét những ý kiến, đề xuất, yêu cầu của người được ủy quyền trong phạm vi ủy quyền; các hành vi tố tụng, các yêu cầu do người được ủy quyền nêu ra vượt ra ngoài phạm vi ủy quyền sẽ không có giá trị pháp lý, không phải là căn cứ để Tòa án quyết định. Do vậy, đối với các trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi gửi văn bản ủy quyền thì Tòa án phải kiểm tra xem xét về nội dung, phạm vi ủy quyền và văn bản đó đã được hợp pháp hóa lãnh sự hay chưa; nếu văn bản ủy quyền được lập tại Việt nam thì phải được công chứng hoặc chứng thực thì văn bản đó mới có giá trị pháp lý. Trường hợp đương sự hoặc người được ủy quyền…gửi giấy ủy