việc đưa thân chủ vào các mối tương tác với nhau hoặc tạo dựng những mạng lưới xã hội mới.
Điểm mạnh của lý thuyết hệ thống sinh thái là tạo được một cách tiếp cận thống nhất từ các quan điểm khác nhau của tâm lý học, xã hội và cộng đồng. Nó mang tính tương tác giúp thúc đẩy cách hiểu về tác động giữa các cá nhân và cá nhân với hệ thống. Bên cạnh đó, cho phép có sự tích hợp các quan điểm lý luận. Đồng thời, định hướng cho việc đánh giá về hành vi.
Điểm hạn chế của lý thuyết hệ thống sinh thái là không mang tính mô tả, là một lý thuyết tổng quát, khó áp dụng vào các tình huống cụ thể, là lý thuyết có nhiều mối liên kết nhưng lại không đưa ra lý thuyết cụ thể nào để kết nối các lý thuyết đó theo cách giải thích.
Có thể nói, nạn nhân của bạo lực gia đình cũng là một cá nhân trong xã hội, chính vì vậy mà cũng chịu tác động của các tiểu hệ thống bên ngoài. Đó là gia đình, xã hội, các tổ chức đoàn thể chính quyền, bệnh viện, tòa án. Vận dụng lý thuyết hệ thống đã chỉ ra mối liên kết tất yếu trong mạng xã hội giữa cá nhân với cá nhân, với nhóm và ngược lại. Đó là mối liên hệ giữa nạn nhân bạo lưc gia đình với người gây ra bạo lực, với gia đình, ông bà cha mẹ và ngược lại. Trong việc hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình không thể không chú ý đến sự ảnh hưởng qua lại đó. Tạo dựng và phát huy những tiềm năng, sức mạnh của hệ thống sẽ tạo nên những lợi thế trong việc trợ giúp nạn nhân của bạo lực gia đình.
Thuyết hệ thống sinh thái nhấn mạnh đến sự tương tác giữa con người với môi trường sinh thái của mình. Theo thuyết này cuộc sống của mỗi con người phụ thuộc vào môi trường xã hội mà họ sinh sống, trong đó có những mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các hệ thống. Khi can thiệp vào bất cứ điểm nào trong hệ thống thì cũng sẽ tạo ra sự thay đổi trong toàn hệ thống. Môi trường sinh thái bao gồm: (1) Cấp vi mô: Là các quan hệ
trực tiếp tác động đến cá nhân của mỗi người; (2) Cấp trung mô: Là sự tương tác giữa các hệ thống ở cấp vi mô ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân hoặc môi trường ảnh hưởng đến cá nhân nhưng họ không nằm trong đó; (3) Cấp vĩ mô: Là những yếu tố bản chất hay quy định của xã hội, cộng đồng có ảnh hưởng đến cá nhân nằm trong đó.
Vận dụng lý thuyết này, chúng ta có thể hiểu rằng, mỗi một gia đình là một tế bào của xã hội. Trong gia đình hòa thuận, bình an thì sẽ tập trung phát triển kinh tế, tạo cảm giác an tâm cho mọi thành viên. Từ đó, sẽ dẫn đến một xã hội văn minh, các quyền của con người được duy trì và thực thi có hiệu quả.
Gia đình cũng chính là nơi bắt đầu của mỗi cá nhân để được nuôi dưỡng, khôn lớn và trưởng thành, chính vì vậy gia đình như một xã hội thu nhỏ và phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau như: chức năng duy trì nòi giống; chức năng kinh tế; chức năng giáo dục.
Như vậy, mỗi một gia đình tốt thì sẽ có xã hội tốt, một xã hội tốt sẽ là môi trường thuận lợi để cá nhân phát triển. Từ đó, các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp sẽ được lưu truyền từ thế hệ này cho thế hệ khác. Do vậy, lý thuyết sinh thái được vận dụng rất phổ biến trong nghiên cứu nói chung và trong công tác xã hội nói riêng.
1.1.3. Thuyết nữ quyền
Có thể bạn quan tâm!
- Công tác xã hội với nạn nhân bạo lực gia đình trên địa bàn Thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương - 1
- Công tác xã hội với nạn nhân bạo lực gia đình trên địa bàn Thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương - 2
- Một Số Lý Thuyết Công Tác Xã Hội Ứng Dụng Trong Nghiên Cứu
- Công tác xã hội với nạn nhân bạo lực gia đình trên địa bàn Thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương - 5
- Một Số Lý Luận Về Công Tác Xã Hội Với Nạn Nhân Bạo Lực Gia Đình
- Thực Trạng Bạo Lực Gia Đình Ở Thị Xã Thuận An, Tỉnh Bình Dương
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Từ thế kỷ XVII sự biến đổi của tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở Châu Âu, đặc biệt ở Anh đã tác động lớn đến cuộc sống của người phụ nữ xã hội đương thời. Sự phân công lao động trong xã hội ngày càng phức tạp hơn, những đơn vị sản xuất ngày càng lớn hơn đã làm cho phụ nữ bị loại trừ khỏi các nghề mà trước đây họ đã từng đảm nhận như buôn bán, in ấn, chế ủ rượu bia, y học. Thay vào đó họ bị hạn chế vào các hoạt động trong gia đình và ngay cả những phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc cũng không ngoại lệ. Hơn nữa sau cải cách tôn giáo, các tu viện là nơi trốn tránh xã hội thực
tại không còn nữa. Số phụ nữ kết hôn tăng và kết hôn trở thành một nhu cầu kinh tế và người phụ nữ cũng lệ thuộc vào chồng nhiều hơn trước. Những phụ nữ không kết hôn phải tự kiếm sống, không được xã hội tôn trọng. Trong bối cảnh xã hội như vậy, vấn đề vai trò của phụ nữ trở thành một vấn đề xã hội bức xúc và trở thành chủ đề của các cuộc tranh luận, các công trình nghiên cứu về vai trò của phụ nữ và mối quan hệ giới trong xã hội. Đến cuối thế kỷ XVIII một số tư tưởng nữ quyền theo chủ nghĩa tự do được hình thành ở Anh. Cuộc tranh luận nổi tiếng nhất về quyền của phụ nữ mang tư tưởng của chủ nghĩa tự do được thể hiện trong cuốn “Sự bênh vực quyền của phụ nữ” của Marry Wollstonecraft. Trong tác phẩm này, các tranh luận dựa trên phân tích tâm lý và sự bất lợi về kinh tế của phụ nữ do sự bắt buộc phải phụ thuộc vào đàn ông và sự loại trừ họ khỏi môi trường xã hội. Vị trí thấp kém về pháp luật so với nam giới cũng là chủ đề được tranh luận nhiều ở Anh. Năm 1840, hội nghị thế giới về chống chế độ nô lệ được tổ chức ở London, trong đó có sự tham gia của một đoàn đại biểu phụ nữ đã làm khơi dậy nhận thức về sự cần thiết phải có một phong trào cho phụ nữ. Ngày 14/7/1848 Ủy ban quyền của phụ nữ được thành lập tại Senesa Falls (New York). Những người tham gia hội nghị tại Senesa Falls cũng thông qua 12 nghị quyết, một trong số đó là quyết tâm đấu tranh cho quyền bầu cử của phụ nữ. Vào khoảng những năm 1850 và 1860, các cuộc tranh luận về quyền bầu cử của phụ nữ diễn ra rất gay gắt. Năm 1890 các hiệp hội Mỹ và quốc gia vì quyền bầu cử của phụ nữ đã kết hợp để trở thành Hiệp hội quốc gia Mỹ vì quyền bầu cử của phụ nữ (Nawsa).[16] Vào ngày 26/8/1920, trong luật sửa đổi thứ 19, sự bảo đảm cho phụ nữ quyền được bầu cử đã được chấp thuận. Sau thành công trên phong trào đấu tranh đòi quyền bầu cử của phụ nữ ở các nước châu Âu và Mỹ tạm lắng xuống. Thay vào đó là sự hình thành một số phong trào mới như: Kiểm soát mức sinh và kế hoạch hóa gia đình, phong trào nhà định cư, sự thiết lập của các
tổ chức làm việc cải thiện điều kiện làm việc cho những người phụ nữ. Những phong trào này đã tạo nên một bước mới cho những sự phát triển của thuyết nữ quyền trong những năm sau đó. Sau đó thời kì chiến tranh thế giới II, Đảng phụ nữ quốc gia do Alice Paul thành lập, tiếp tục đấu tranh để cải thiện địa vị của người phụ nữ. Sự phát triển của thuyết nữ quyền có thể được coi xuất phát từ sự phát triển của phong trào phụ nữ thế kỉ XIX. [16]
Có 3 làn sóng nữ quyền. Làn sóng nữ quyền thứ nhất bắt đầu từ cách mạng Pháp và đánh dấu bằng việc xuất bản cuốn “Sự biện minh cho quyền phụ nữ” của Marry Wollstonecraft. Còn ở Mỹ, làn sóng nữ quyền thứ nhất tập trung vào các quyền đấu tranh cho phụ nữ về chính trị, đặc biệt là về quyền của phụ nữ. Làn sóng nữ quyền thứ hai của phong trào nữ quyền của Mỹ xuất hiện vào thập niên 1960 và vươn đến đỉnh cao vào thập niên 1970. Phong trào một phần nào đã được thúc đẩy từ 3 quyển sách tiên phong về nữ quyền Giới tính thứ hai của Simone de Beauvoir, Huyền thoại phụ nữ của Betty Friedan và Chính trị học giới tính của Kate Millett. Theo nhận xét của nhà xã hội người Mỹ G. Ritzer thì làn sóng thứ hai là của giới học giả. Làn sóng nữ quyền thứ ba bắt đầu phổ biến vào những năm 1990, khi trên một số kênh truyền thông đại chúng đề cập đến “một cái chết dần dần và một cái chết đầy đau khổ” của chủ nghĩa nữ quyền. Thuật ngữ làn sóng nữ quyền thứ ba được dùng để xác định một giai đoạn mới trong lịch sử của thuyết nữ quyền, một giai đoạn tương phản với làn sóng nữ quyền thứ nhất và làn sóng nữ quyền thứ hai. Chủ thể của làn sóng nữ quyền thứ ba, đó là những nhà nữ quyền trẻ không chỉ tăng lên sự cam kết cá nhân họ với chủ nghĩa nữ quyền, mà họ còn cho thấy mức độ tình nguyện rất cao để thực hiện những hành động tập thể nhằm tạo nên sự biến đổi có hiệu quả.
Tư tưởng nữ quyền nâng cao sự quan tâm về mối quan hệ quyền lực tạo bất lợi cho phụ nữ trong chuyên môn nghề nghiệp và loại bỏ sự thành
thạo, kinh nghiệm và giá trị của phụ nữ. Tư tưởng nữ quyền cũng nêu lên nhu cầu cần phải hiểu biết và trân trọng những kinh nghiệm và cuộc sống của phụ nữ một cách tách biệt và khác với những gì của nam giới và vai trò của nam giới khi có xảy ra vấn đề giới, chẳng hạn như những vấn đề về chăm sóc mại dâm, bạo lực gia đình và bóc lột về tình dục.[16]
Quan điểm nữ quyền tập trung vào việc giải thích và đáp ứng cho vị trí bị áp bức của phụ nữ trong hầu hết các xã hội. Lý thuyết nữ quyền bao gồm: thuyết nữ quyền tự do tập trung vào chế độ phụ quyền; lý thuyết nữ quyền triệt để tập trung vào chế độ phụ quyền; lý thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa tập trung vào những áp bức của phụ nữ như là một phần của bất bình đẳng xã hội trong một cơ cấu xã hội dựa vào giai cấp; lý thuyết phụ nữ da màu tập trung vào tính đa dạng và giá trị về kinh nghiệm của phụ nữ; lý thuyết nữ quyền hậu hiện đại dựa vào những diễn thuyết, những bài nói mang tính xã hội và văn hóa trong một xã hội với nhận thức và khả năng phát triển của phụ nữ bị giới hạn.
Lý thuyết nữ quyền là một hệ thống bao gồm nhiều trường phái khác nhau. Bao gồm: lý thuyết nữ quyền tự do; thuyết nữ quyền Marxist; thuyết nữ quyền cấp tiến; lý thuyết nữ quyền phân tâm học; lý thuyết nữ quyền hiện sinh; thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa; thuyết nữ quyền hậu hiện đại.
Lý thuyết nữ quyền tự do được hình thành từ làn sóng nữ quyền thứ nhất của chủ nghĩa Khai sáng. Thuyết nữ quyền theo tư tưởng tự do được thể hiện chủ yếu trong cuốn Sự bênh vực quyền của phụ nữ của Marry Wollstonecraft và Sự khuất phục của phụ nữ của John Stuart Mill và vợ ông là Hairiet Taylor. Các nhà nữ quyền tự do cho rằng sự bị trị của người phụ nữ bắt rễ trong ràng buộc về tập quán và pháp lý. Theo họ thì vì xã hội tin tưởng một cách sai lầm rằng do bản chất của mình phụ nữ kém năng lực hơn nam giới về trí tuệ, thể chất nên phụ nữ bị gạt khỏi các diễn đàn và thương trường. Theo thuyết nữ quyền tự do thì nam giới và phụ nữ đều có
quyền lợi công bằng như nhau và quan điểm này chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Khai sáng. Thuyết nữ quyền tự do có ưu điểm là bước đầu hình thành nên tư tưởng về quyền bình đẳng của phụ nữ và tìm kiếm sự chia sẻ trách nhiệm từ phía nam giới, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống cho người phụ nữ. Tuy nhiên, thuyết nữ quyền tự do quá nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do cá nhân so với cái tốt chung cho mọi người, ca ngợi chủ nghĩa nhân tạo trung lập về mặt giới mà coi nhẹ thuyết nữ quyền có quan tâm đến vấn đề giới. [16]
Thuyết nữ quyền Marxist: nói đến cách hiểu và vận dụng nó trong các tác phẩm của các tác giả nữ quyền Marxist phương Tây. Theo thuyết này thì xã hội có giai cấp thì tất cả mọi người đặc biệt là phụ nữ không thể đạt được những cơ hội thật sự bình đẳng khi của cải vật chất sản xuất ra bởi một số đông không có quyền hành lại nằm trong tay một số ít người đầy quyền lực. Theo lý thuyết này thì chủ nghĩa tư bản, chứ không chỉ các quy tắc xã hội rộng hơn, là nguyên nhân của sự áp bức phụ nữ, do đó, nếu tất cả mọi phụ nữ muốn giải phóng, hệ thống tư bản chủ nghĩa phải được thay thế bằng một hệ thống xã hội trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi người. Dưới chủ nghĩa xã hội, vì không ai phải lệ thuộc về kinh tế vào bất cứ ai, phụ nữ sẽ được tự do về kinh tế đối với nam và bình đẳng với nam giới. Dựa trên quan điểm của Engels cho rằng sự giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào việc phụ nữ tham gia vào nền sản xuất và quan điểm của Lênin về tầm quan trọng của xã hội hóa việc nhà, những nhà lý thuyết nữ quyền Marxist muốn thay đổi gia đình với tư cách một đơn vị kinh tế, vì nó là một cơ cấu nuôi dưỡng hệ thống tư bản chủ nghĩa. Lý thuyết này đưa ra quan điểm trong xã hội có giai cấp không thể có sự bình đẳng giới; chủ nghĩa tư bản và chế độ nam trị là nguyên nhân của áp bức phụ nữ. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng có một số hạn chế nhất định. Jame Bethke Elshtain không đồng ý với các nhà nữ quyền Marxist về gia đình. Bà cho rằng gia đình là nơi duy
nhất con người có thể tìm kiếm được tình yêu, an toàn và tiện lợi, không nên thay đổi gia đình với tư cách là một đơn vị kinh tế. Alison Jaggar đứng trên quan điểm xã hội chủ nghĩa phê phán thuyết nữ quyền Marxist. Bà cho rằng các nhà nữ quyền Marxist đã không nói nhiều về sự áp bức phụ nữ do nam giới chủ trì. Khi nhiều người Marxist nói về sự áp bức phụ nữ, họ cho rằng tư bản là người thứ nhất áp bức phụ nữ ở vai trò người lao động, và nam giới chỉ là người áp bức thứ hai ở vai trò người phụ nữ. Theo bà, quan hệ nam nữ trong hôn nhân không mang tính chất bóc lột và tha hóa giống như quan hệ Tư sản - Vô sản, chủ - thợ mà các nhà Marxist tin tưởng. Dù có giống nhau, người công nhân bị bóc lột không khổ giống người vợ bị áp bức. Lý thuyết Marxist ít đề cập tái sinh đẻ của phụ nữ và tính dục. Như vậy, sản xuất được phân tích nhiều hơn tái sản xuất. Theo đó phụ nữ muốn được giải phóng phải tham gia vào sản xuất và cần thay thế chủ nghĩa tư bản bằng hệ thống xã hội chủ nghĩa. [16]
Thuyết nữ quyền cấp tiến: bắt đầu xuất hiện vào những năm cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970. Từ đầu những năm 1970 hàng loạt những công bố của các lý luận gia nữ quyền cấp tiến đề cập đến vấn đề phụ nữ bị áp bức bởi đàn ông cả trong gia đình và ngoài xã hội như: Biện chứng về giới của tác giả Shulamith Firestone; Thái độ gia trưởng của Eva Figes; Những chính sách tình dục của Kate Millet. [16]
Theo các lý luận gia nữ quyền cấp tiến thì vai trò của phụ nữ trong gia đình gắn liền với chế độ gia trưởng, chế độ gia trưởng có trước chế độ tư hữu. Chế độ gia trưởng hay hệ thống nam trị đã áp bức phụ nữ. Đây là môt hệ thống mà nổi bật là quyền lực và sự thống trị, tôn ti trật tự và cạnh tranh. Phụ nữ bị thống trị bởi nam giới, và nam giới có khả năng áp bức phụ nữ. Sự khác biệt về giới có thể được giải thích theo nghĩa là sự khác biệt về sinh học, về tâm lý học nam và nữ. Tức là người phụ nữ bị áp bức bởi chức năng tái sinh sản và bị đàn ông cưỡng hiếp. Lý thuyết nữ quyền
triệt để còn cho rằng bạo lực đối với phụ nữ hay vấn đề tình dục khác giới theo kiểu ép buộc cũng như cách thức tổ chức gia đình theo kiểu gia đình gia trưởng là cách đảm bảo sự trường tồn sự thống trị của nam giới đối với phụ nữ. Do đó phụ nữ phải lệ thuộc vào nam giới cả về vật chất và tinh thần. Những nhà nữ quyền cấp tiến cho rằng yếu tố sinh học không phải là nguyên nhân của áp bức mà sự áp bức là ở chỗ nam giới kiểm soát phụ nữ ở vai trò sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái. Lý thuyết nữ quyền cấp tiến đã chỉ ra chế độ gia trưởng là nguyên nhân cội rễ của sự áp bức phụ nữ. Họ không thừa nhận đặc điểm sinh học là yếu tố quyết định sự phụ thuộc của phụ nữ vào nam giới. [16]
Lý thuyết nữ quyền cấp tiến hơn lý thuyết nữ quyền tự do và Marxist, các nhà nữ quyền cấp tiến đã trực tiếp lưu ý đến cách thức mà nam giới dùng để kiểm soát thân thể phụ nữ. Hơn nữa họ đã chỉ rõ cách thức mà nam giới dùng tính dục để phục vụ nhu cầu, mong muốn và lợi ích của nam giới, không phải phụ nữ. Tuy nhiên, họ cho rằng tính dục của những người đồng tính nữ chính là loại tính dục đáp ứng những nhu cầu của phụ nữ, chủ trương khước từ tính dục nam nữ là trái với quy luật tự nhiên. Họ cho rằng phụ nữ về bản chất tốt hơn nam giới, còn nam giới về bản chất là xấu. Phụ nữ siêu việc hơn nam giới về mặt sinh học là có khả năng sinh sản. Trường phái nữ quyền cấp tiến được đánh giá là có vẻ thái quá, cực đoan như kêu gọi thành lập chế độ cho phụ nữ và cắt đứt các quan hệ với nam giới như là chấm dứt quan hệ tình dục lứa đôi, chủ trương đẩy mạnh quan hệ tình dục đồng tính. [16]
Lý thuyết nữ quyền phân tâm học: có nguồn gốc từ lý thuyết Freud và những khái niệm lý thuyết như giai đoạn tiền Oedipe và mặc cảm Oedipe. Coi tình dục là trung tâm không phải từ những vấn đề khác nhau như phá thai, kiểm soát sinh đẻ, chế độ nô lệ nữ. Các nhà phân tâm học cho rằng mặc cảm Oedipe là cội rễ của chế độ nam trị, là do trí tưởng tượng của