Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Cơ Cấu Nguồn Vốn Của Doanh Nghiệp

là: (1) thiết lập cơ chế kiểm toán nội bộ để kiếm soát hành vi tư lợi của nhà quản lý; (2) có cơ chế đãi ngộ và xử phạt thích đáng để gắn kết lợi ích của cổ đông và nhà quản trị. Pinegar & Wilbricht (198) phát hiện DN có thể sử dụng nợ như một công cụ giám sát nhà quản lý hiệu quả hơn. Một mặt, tăng nợ sẽ làm giảm dòng tiền tự do. Mặt khác, nhà quản lý chịu sự giám sát chặt chẽ hơn của cả cổ đông và chủ nợ.

DN có hệ số nợ cao làm nảy sinh vấn đề xung đột lợi ích giữa chủ nợ và cổ đông. Cổ đông muốn gia tăng hơn nữa TSSL sẽ hướng nhà quản lý đầu tư vào dự án có suất sinh lời cao, rủi ro cao. Chủ nợ muốn bảo vệ lợi ích của mình sẽ áp dụng quy định để hướng nhà quản lý đầu tư vào dự án ít rủi ro và ngăn cản việc đầu tư vào dự án đảm bảo lợi ích dài hạn nhưng rủi ro cao. Như vậy, cổ đông- chủ nợ- nhà quản lý đều cố gắng áp đặt các chiến lược khác nhau vì lợi ích riêng, điều này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của DN.

Việc nghiên cứu các lý thuyết về cơ cấu nguồn vốn giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có một cách hiểu sâu sắc hơn về cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Mặc dù mỗi lý thuyết về cơ cấu nguồn vốn đều còn những hạn chế nhất định, chưa giải quyết triệt để các vấn đề để tìm ra cách xác định cơ cấu nguồn vốn tối ưu nhưng cũng đã chứng tỏ rằng cơ cấu nguồn vốn rất hữu ích trong việc giảm chi phí sử dụng vốn bình quân, tối đa khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tóm lại, qua nghiên cứu các lý thuyết về cơ cấu nguồn vốn, có thể thấy rằng:

Thứ nhất, nhân tố quan trọng trong việc lựa chọn cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp là hệ số nợ. Việc sử dụng nhiều nợ vay (tăng hệ số nợ) làm gia tăng rủi ro của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, nhưng lại đem đến cho doanh nghiệp cơ hội đạt tới tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao hơn. Nguyên lý đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận là cở sở quan trọng trong việc hoạch định nguồn vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp luôn hướng đến một cơ cấu nguồn vốn làm cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, qua đó tối đa hóa giá trị doanh nghiệp hay giá cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường.

Thứ hai, xây dựng cơ cấu nguồn vốn mục tiêu là một quyết định quan trọng trong chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở các yếu tố định tính và định lượng các nhân tố tác động đến nguồn vốn của doanh nghiệp, nhà quản trị có thể xây dựng được một cơ cấu nguồn vốn phù hợp cho doanh nghiệp mình. Một cơ cấu nguồn vốn được coi là tối ưu khi có chi phí sử dụng vốn là nhỏ nhất, mức độ rủi ro thấp nhất, đồng thời giá trị doanh nghiệp là cao nhất.

Thứ ba, xây dựng CCNV đóng vai trò quan trọng trong chính sách huy động vốn nói riêng và quản trị TCDN nói chung. Mỗi doanh nghiệp khi xây dựng chính sách tài trợ đều nhằm đạt được ba mục tiêu: (1) Huy động được nguồn vốn phù hợp với quy mô tối đa; (2) Xây dựng được cơ cấu nguồn vốn; và (3) Duy trì cơ cấu nguồn vốn đó. Tuy nhiên,

trong thực tế, việc xác định một cách chính xác cơ cấu nguồn vốn tối ưu của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Bởi vì, điều kiện và hoàn cảnh kinh doanh luôn có sự thay đổi, điều kiện kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là khác nhau, mỗi nguồn vốn cũng có những bất lợi và lợi thế riêng. Do đó, trong nghiên cứu và thực tiễn, khái niệm cơ cấu nguồn vốn mục tiêu được sử dụng. Cơ cấu nguồn vốn mục tiêu được xác định dựa trên các lý thuyết về cơ cấu nguồn vốn, đồng thời phải cân nhắc giữa yếu tố rủi ro và tỷ suất sinh lời trong điều kiện, hoàn cảnh kinh tế cụ thể trong từng thời kỳ. Khi điều kiện và hoàn cảnh kinh doanh có sự thay đổi đáng kể thì cơ cấu nguồn vốn mục tiêu cũng phải thay đổi. Mỗi doanh nghiệp phải luôn xác định CCNV mục tiêu trong từng thời kỳ và việc huy động vốn phải luôn hướng đến CCNV mục tiêu này.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp

1.2.4.1 Các nhân tố bên trong

Các nhân tố bên trong của doanh nghiệp gồm các nhân tố thuộc về đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các nhân tố về năng lực quản trị của doanh nghiệp, nhân tố về chính sách huy động vốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

- Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Các doanh nghiệp sản xuất thường có chu kỳ kinh doanh kéo dài, thời gian luân chuyển vốn kéo dài, sử dụng nhiều vật tư, máy móc thiết bị; vì vậy, cơ cấu nguồn vốn sẽ thiên về sử dụng các nguồn vốn dài hạn (thường xuyên), do đó, hệ số nợ thường thấp. Ngược lại, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thường có chu kỳ kinh doanh ngắn, tốc độ quay vòng vốn nhanh, cơ cấu tài sản chủ yếu là tài sản ngắn hạn; vì vậy, cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp thương mại dịch vụ thiên về sử dụng nợ ở mức cao, chủ yếu là nợ ngắn hạn.

Cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp niêm yết trong ngành vật liệu xây dựng ở Việt Nam - 7

- Chu kỳ sống và số năm hoạt động của doanh nghiệp

Sự tồn tại phát triển của một doanh nghiệp thường có tính nhất định trong vòng đời kinh doanh của nó, đó là các giai đoạn: hình thành, tăng trưởng, phát triển ổn định và suy thoái. Mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào giai đoạn phát triển của mình mà có quyết định tổ chức cơ cấu nguồn vốn hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh. Thông thường thì những doanh nghiệp ở giai đoạn hình thành thường có tỉ trọng nợ vay thấp, sau đó tăng dần ở giai đoạn tăng trưởng và phát triển, khi bước sang giai đoạn suy thoái thường giảm dần tỉ lệ nợ so với tỷ lệ vốn chủ sở hữu.

Số năm hoạt động của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với đòn bẩy tài chính do thời gian hoạt động càng dài giúp doanh nghiệp có được vị thế tín dụng cao và dễ dàng hơn tiếp cận các khoản vốn vay. Ngoài ra, số năm hoạt động của doanh nghiệp có liên quan đến các thông tin minh bạch của doanh nghiệp trên thị trường tín dụng; từ đó, giúp doanh nghiệp

giảm rủi ro về thông tin bất đối xứng đối với các ngân hàng, các tổ chức cho vay tín dụng; giảm chi phí huy động vốn do việc quản lý các khoản nợ sẽ trở nên dễ dàng hơn. Đây là những lợi thế mà những doanh nghiệp mới thành lập hoặc còn non trẻ trên thị trường không dễ dàng có được.

Bảng 1.1. Thay đổi của nợ vay theo từng giai đoạn trong vòng đời của DN

Khởi đầu Tăng trưởng Trưởng thành Suy thoái

Lá chắn thuế Bằng 0 Tăng lên cùng với sự gia tăng lợi nhuận

Cao Cao nhưng có xu hướng giảm

Vai trò làm tăng tính kỷ luật của nợ vay

Bất cân xứng thông tin


Chi phí phá sản


Chi phí đại diện


Nhu cầu tính linh hoạt tài chính


Đánh đổi ròng

Thấp, vì các cổ đông đồng thời là nhà quản lý DN


Cao, doanh nghiệp chỉ có một ý tưởng kinh doanh

Rất cao, bởi vì các DN không có hoặc có lợi nhuận âm Rất cao bởi vì DN

gần như không có tài sản

Rất cao. DN tìm kiếm các cách để thiết lập kinh doanh Chi phí của nợ vay

> Lợi ích

Mức độ sử dụng nợ vay tối thiểu

Tăng lên, vì có thêm cổ đông mới


Giảm, vì đã có lịch sử thành tích và sự tín nhiệm

Cao, bởi vì lợi nhuận tăng nhưng vẫn biến động

Cao. Có nhiều khoản đầu tư mới và rủi ro không ổn định

Cao. Nhu cầu đầu tư mở rộng là khó dự đoán


Nợ bắt đầu tạo ra lợi ích ròng cho DN

Cao vì các nhà quản lý tách biệt với chủ sở hữu


Thấp vì tính minh bạch cao hơn


Giảm. Lợi nhuận từ tài sản hiện có tăng lên

Giảm bởi vì tài sản đã đầu tư chiếm một tỷ trọng lớn

Thấp. DN có ít nhu cầu đầu tư và có thể dự đoán

Chi phí < Lợi ích Nợ vay là một lựa chọn hấp dẫn hơn

Giảm. DN không thực hiện nhiều khoản đầu tư mới


Thấp


Thấp nhưng tăng lên khi các dự án hiện có kết thúc Thấp bởi vì DN thực hiện ít khoản đầu tư mới

Không tồn tại. DN không có nhu cầu đầu tư mới


Nợ sẽ tạo ra lợi ích

(Nguồn: Aswarth Damodaran, Applied Corporate Finance: A User's Manual, John Wiley & Sons, 2005)

- Quy mô của doanh nghiệp

Thông thường, những doanh nghiệp quy mô lớn thì có khả năng huy động vốn nhanh và lớn hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp này lớn hơn, do vậy sẽ thiên về sử dụng vốn vay. Ngược lại, với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì xu hướng sử dụng vốn vay sẽ ít hơn nên thiên về sử dụng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có quy mô lớn với vị thế cao trên thị trường cũng dễ dàng huy động vốn cổ phần thường, đồng thời có nguồn vốn nội sinh dồi dào. Do đó, có thể sử dụng ít nợ vay hơn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.

- Cơ cấu Tài sản

Tài sản cố định là một bộ phận tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận nợ vay bởi nó phản ánh năng lực thế chấp của doanh nghiệp. Tỷ trọng TSCĐ trong tổng tài sản cũng cho thấy cơ cấu phân bổ vốn đầu tư của DN. Các lý thuyết đều có sự đồng nhất khi cho rằng DN nào có nhiều tài sản cố định hữu hình thì sử dụng nhiều nợ. Một là do chủ nợ thường yêu cầu tài sản thấp chấp bảo đảm cho các khoản vay. Hai là do DN có nhiều TSCĐ cho thấy năng lực sản xuất tốt, chi phí phá sản kỳ vọng thấp. Ngoài ra, DN huy động vốn để tài trợ cho các tài sản cũng cần đảm bảo tính tương thích về mặt thời gian. DN nào có tỷ lệ tài sản dài hạn trên tổng tài sản lớn thường sử dụng nhiều nguồn vốn dài hạn hơn.

- Mức độ sử dụng đòn bẩy kinh doanh

Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mức độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh trong tổng chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung các doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh thấp thường cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn ngắn hạn nhiều hơn, bởi lẽ các doanh nghiệp này cần ít vốn dài hạn để đầu tư vào TSCĐ so với các doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh cao.

- Khả năng thanh toán

Tài sản có tính thanh khoản cao sẽ đảm bảo cho các khoản nợ tốt hơn. DN có khả năng thanh toán cao thường có xu hướng sử dụng nợ nhiều hơn để khai thác lợi ích từ nợ. Đồng thời, khả năng thanh toán và tính thanh khoản cao phản ánh sự lành mạnh về tài chính của doanh nghiệp, là căn cứ quan trọng để các chủ nợ cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Nói cách khác, khả năng thanh toán và tính thanh khoản của tài sản có tác động thuận chiều đến hệ số nợ của DN.

- Mức độ ổn định về doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp

Nếu lợi nhuận của doanh nghiệp ổn định sẽ làm cho niềm tin của nhà đầu tư, nhà cung cấp và đối tác kinh doanh sẽ tăng lên, làm cho khả năng vay nợ của công ty tăng lên, từ đó làm cho cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thiên về vay nợ hơn. Mặt khác nếu một doanh nghiệp có mức lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận đạt được ở các năm không ổn định thì việc sử dụng các nguồn vốn vay sẽ bị hạn chế, do khó chắc chắn nguồn trả nợ vay cho các chủ nợ đúng hạn.

- Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) với chi phí sử dụng nợ vay

Nếu doanh nghiệp có tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) lớn hơn lãi suất huy động vốn vay sẽ là cơ hội cho doanh nghiệp gia tăng tỉ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu

(ROE); trong bối cảnh này, khi có nhu cầu huy động tăng vốn người ta thường quyết định cơ cấu nguồn vốn doanh nghiệp theo hướng sử dụng nợ ở mức lớn hơn.

- Tỷ suất sinh lời

Thông thường, tỷ suất sinh lời là một chỉ số tài chính quan trọng cung cấp thông tin cho các chủ nợ về sức khoẻ tài chính và triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có TSSL cao dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn vay và có thể có mức chi phí sử dụng nợ vay thấp hơn do rủi ro của chủ nợ thấp hơn. Do vậy, doanh nghiệp có TSSL cao thường vay nợ nhiều hơn. Mặt khác, DN có TSSL cao tăng nợ vay còn giúp DN tận dụng được lợi ích từ tấm lá chắn thuế của lãi vay. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng các DN có TSSL cao sử dụng ít nợ vay hơn do có nguồn vốn nội sinh lớn và ưu tiên sử dụng nguồn vốn tự có hơn là vốn vay. Ngoài ra, bằng chứng thực nghiệm còn cho thấy tác động của TSSL lên nợ vay phụ thuộc vào đặc điểm thị trường tài chính và thể chế của từng quốc gia.

- Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp

Theo lý thuyết trật tự phân hạng, DN có cơ hội tăng trưởng cao có nhu cầu đầu tư lớn. Giả định chính sách phân phối lợi nhuận của DN không đổi thì cơ hội tăng trưởng tác động tích cực hoặc tiêu cực đến CCNV tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh. Theo lý thuyết đánh đổi, DN có cơ hội tăng trưởng cao có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng, đồng thời khuếch đại tỷ suất lời VCSH. Như vậy, cơ hội tăng trưởng hay khả năng sinh lời của DN có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hệ số nợ mục tiêu và cần được xét trong các điều kiện cụ thể của DN.

- Cơ cấu sở hữu

Lý thuyết đại diện đưa ra giả định rằng chi phí đại diện sẽ phát sinh từ xung đột lợi ích giữa các nhà quản lý doanh nghiệp và cổ đông, là do sự tách biệt quyền sở hữu và kiểm soát. Đây là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp có dòng tiền tự do đáng kể, thường có xu hướng sử dụng nguồn lực này kém hiệu quả, hay đầu tư vào các dự án mang lại mức hiệu quả không cao cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể thay đổi cơ cấu nguồn vốn để giải quyết vấn đề này. Cụ thể, các doanh nghiệp có thể tăng mức đòn bẩy tài chính để hạn chế các hoạt động quản lý. Nếu doanh nghiệp đã dự kiến các cơ hội tăng trưởng trong tương lai, nghĩa vụ nợ sẽ giúp hạn chế sự đầu tư quá mức của dòng tiền tự do vào các dự án không hiệu quả (Harvey và cộng sự, 2004). Bên cạnh đó, mức nợ cao làm tăng nguy cơ phá sản nếu doanh nghiệp không thể trả nợ đúng hạn. Chi phí phá sản tiềm năng buộc các nhà quản lý phải làm việc chăm chỉ để đưa ra các quyết định đầu tư có giá trị, và do đó làm giảm nguy cơ phá sản (Grossman & Hart, 1980).

- Yêu cầu giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp

Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc coi trọng quyền kiểm soát doanh nghiệp sẽ rất thận trọng trong việc phát hành thêm cổ phiếu mới ra công chúng để huy động thêm vốn. Ngược lại các doanh nghiệp đã hoạt động lâu năm, đi vào ổn định thường không ngần ngại chia sẻ quyền kiểm soát sẽ mạnh dạn hơn trong việc huy động vốn cổ phần mới trên thị trường.

- Lá chắn thuế phi nợ vay

Lá chắn thuế phi nợ cũng là một nhân tố được phân tích khi bàn về các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu nguồn vốn. Trong khi một số nghiên cứu của Bradley, Jarrell và Kim (1984); Wald (1999) cho rằng có mối liên hệ thuận chiều giữa lá chắn thuế phi nợ và đòn bẩy tài chính, các tác giả khác lại có quan điểm ngược lại. Theo như De Angelo và Masulis (1980); Titman và Wessels (1988), lợi ích của việc sử dụng nợ sẽ dần dần bị thay thế bởi việc giảm trừ thuế và khấu hao. Bởi vì, lá chắn thuế cao khi so sánh với dòng tiền dự kiến trong tương lai, doanh nghiệp sẽ có xu hướng sử dụng đòn bẩy trong cấu trúc vốn. Điều này trùng khớp với lập luận của lý thuyết cân bằng (Trade-off Theory). Bên cạnh đó, khi lá chắn thuế phi nợ tăng lên, khả năng thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp sẽ là âm. Chính vì thế, sẽ là hợp lý cho doanh nghiệp với số lượng lớn của lá chắn thuế phi nợ cắt giảm việc vay nợ của mình.

- Yếu tố năng lực, sự mạo hiểm của nhà quản trị

Năng lực và tính cách của nhà quản trị là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến CCNV của DN. Nhà lãnh đạo có năng lực quản trị tốt sẽ xây dựng được CCNV hợp lý, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của DN trong từng giai đoạn phát triển. Nhà quản trị ưa mạo hiểm và chấp nhận rủi ro thường sử dụng nhiều nợ vay hơn. Ngược lại, những nhà quản trị e ngại rủi ro thường sử dụng vốn chủ nhiều hơn. Yếu tố năng lực, sự mạo hiểm của nhà quản trị trên thực tế rất khó xác định và lượng hoá. Nó là kết quả tổng hợp của các biện pháp và hành động cụ thể nhằm gia tăng hiệu quả kinh doanh cho DN.

1.2.4.2 Các nhân tố bên ngoài

Các nhân tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng trên diện rộng đến quyết định cơ cấu vốn của đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Những nhân tố quan trọng nhất bao gồm:

- Sự phát triển của nền kinh tế: Trong những thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng, nhìn chung các công ty sẽ tạo ra lợi nhuận tốt hơn và có khả năng sử dụng nhiều nợ vay hơn. Trong những thời kỳ suy thoái, lợi nhuận giảm sút và khả năng vay nợ của các công ty thường giảm xuống.

- Tình hình chính trị và chính sách của nhà nước: Tình hình chính trị và chính sách của nhà nước là những biến số vĩ mô tác động lớn tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Chính trị ổn định và chính sách nhà nước có độ ổn định, có thể dự báo được là yếu tố quan trọng đảm bảo cho các doanh nghiệp yên tâm huy động vốn cho việc đầu tư, kinh doanh.

- Mức độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế: Nếu nền kinh tế hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp sẽ đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn, có thể làm sụt giảm tỷ suất lợi nhuận hoặc tăng tính biến động của dòng tiền, và đối mặt với nguy cơ phá sản nếu hoạt động kém hiệu quả. Do đó, nếu nền kinh tế càng mở thì các công ty sẽ có xu hướng vay nợ ít hơn để hạn chế bớt rủi ro.

- Sự phát triển của thị trường tài chính: Sự phát triển của thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các nguồn tài chính cho các công ty. Sự phát triển và tự do hóa trong khu vực này có thể quan sát được thông qua sự hoạt động của các thị trường vốn và hệ thống ngân hàng. Mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng sẽ giúp giảm bớt các vấn đề thông tin không cân xứng giữa người cho vay và người đi vay. Cải cách ngân hàng ở các nước đang phát triển tạo động lực cho hệ thống ngân hàng nhạy bén hơn với các rủi ro tín dụng, do đó, thúc đẩy họ phải xử lý thông tin về người đi vay và kiểm soát kết quả hoạt động của họ.

Đối với thị trường cổ phiếu, Greenwald và Stiglitz (1998) đã chứng minh rằng bằng việc phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp không phải đối mặt với gánh nặng của nghĩa vụ tài chính (như với các khoản nợ) trong bối cảnh suy thoái, và điều này cho phép doanh nghiệp có thể tính đến việc đầu tư và tăng trưởng trong dài hạn. Levine (2000) cho rằng thị trường có tính thanh khoản cao sẽ khuyến khích các nhà đầu tư mua cổ phiếu hơn là cho vay, thị trường cổ phiếu hoạt động tốt sẽ giúp tăng cường độ tin cậy của hệ thống kế toán và khuyến khích việc chuẩn hóa thông tin, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết.

- Lãi suất thị trường: Khi lãi suất giảm, nợ vay sẽ trở nên rẻ hơn và hấp dẫn hơn đối với các công ty. Thêm vào đó, việc lãi suất giảm xuống cũng làm giảm chi phí sử dụng vốn cổ phần thường. Khi lãi suất vượt khỏi mức thông thường, các khoản thanh toán lãi vay cao hơn ở mỗi mức nợ vay cho trước sẽ làm giảm xếp hạng trái phiếu và ảnh hưởng đến khả năng vay nợ thêm của các công ty.

- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân: Trong điều kiện những yếu tố khác không đổi, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của một công ty càng cao thì công ty sẽ có xu hướng sử dụng nhiều nợ vay hơn trong cơ cấu vốn. Nếu thuế suất tăng qua thời gian, chúng ta sẽ kỳ vọng hệ số nợ cũng tăng qua thời gian, phản ánh khoản lợi thuế cao hơn của nợ vay.

- Đặc điểm của ngành: Các công ty trong cùng ngành có nhiều điểm tương đồng trong phần lớn các khía cạnh như: cơ cấu tài sản, công nghệ sản phẩm, khung pháp lý, do đó, thường chia sẻ những đặc trưng chung về cơ cấu vốn. Giữa các ngành kinh tế khác nhau có những điều kiện kinh tế khác nhau nên thường sẽ có cơ cấu vốn khác nhau. Vì vậy, một trong những điểm khởi đầu hữu ích để các công ty hoạch định cơ cấu vốn là xem xét mức hệ số nợ trung bình ngành cũng như những chuyển động theo qua thời gian về cơ cấu vốn của các công ty trong ngành.

1.2.5. Tác động của cơ cấu nguồn vốn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

1.2.5.1. Tác động của cơ cấu nguồn vốn đến chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp

Mặc dù các lý thuyết chưa có sự nhất quán về sự tác động của CCNV đến WACC. Các nghiên cứu đã đề cập đến WACC là chỉ tiêu bình quân có trọng số của chi phí sử dụng VCSH và chi phí sử dụng nợ vay và được xác định theo công thức sau:

WACC =( )

rd +

x re

Trong đó: D (Debt) là nợ vay; E (Equity) là VCSH; t là thuế suất thuế TNDN; rd là chi phí sử dụng nợ vay; re là chi phí sử dụng VCSH.3

Do đó, khi CCNV thay đổi thì WACC cũng thay đổi. Nói cách khác CCNV của DN có tác động đến WACC. Đối với các nhà quản trị tin tưởng rằng DN có tồn tại một CCNV tối ưu thì mục tiêu của họ là phải tìm ra CCNV tối ưu đó. Tại CCNV tối ưu thì WACC thấp nhất, khi đó giá trị DN đạt được là cao nhất.

Trong 2 nguồn vốn cơ bản thì nợ vay có chi phí sử dụng vốn thấp hơn VCSH. Do đó, trả lời cho câu hỏi về CCNV giúp tối thiểu hoá WACC trước hết đó là DN gia tăng nợ vay để thay thế nguồn vốn có chi phí cao bằng nguồn vốn có chi phí thấp hơn nhằm giảm WACC. Điều này có thể được giải thích như sau:

Xét từ góc độ nhà đầu tư khi cho DN vay vốn thì CSH có rủi ro cao hơn so với chủ nợ do sự không chắc chắn về mức thu nhập nhận được cũng như việc hoàn trả vốn gốc. Chủ nợ nhận được lãi vay cố định và bắt buộc trong khi CSH nhận được mức cổ tức tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách cổ tức của DN. Chủ nợ cũng được ưu tiên thanh toán lãi vay trước cổ tức trả cho CSH. Trong trường hợp DN phá sản bị phát mãi tài sản, chủ nợ cũng sẽ nhận được phần vốn của họ trước CSH. Đó là 3 lý do cơ bản lý giải cho việc CSH đòi hỏi mức sinh lời cao hơn chủ nợ để bù đắp rủi ro gặp phải. Xét từ góc độ DN, sử dụng nợ vay cũng rẻ hơn VCSH nhờ được hưởng lợi từ tấm chắn thuế của lãi vay giúp giảm thuế TNDN.


Xem tất cả 241 trang.

Ngày đăng: 21/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí