7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, cam kết của tác giả, các phụ lục, các tài liệu tham khảo. Luận án chia thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Chương 2: Cơ sở lý luận về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Chương 3: Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Chương 4: Phân tích thực trạng chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đổi mới công nghệ
Chương 5: Giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
CHƯƠNG 1
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội - 1
- Chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội - 2
- Khung Lý Thuyết Nghiên Cứu Về Csnn Nhằm Thúc Đẩy Dn Đmcn
- Khái Niệm Công Nghệ Và Đổi Mới Công Nghệ
- Vai Trò Của Công Nghệ Và Đổi Mới Công Nghệ Tới Phát Triển Kinh Tế- Xã Hội Và Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM THÚC ĐẨY
DOANH NGHIỆP ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài về hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, chính sách đổi mới công nghệ, cũng như chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN với nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Luận án này chia các nghiên cứu thành 2 nhóm chính: (i) nhóm nghiên cứu về ĐMCN, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp, (ii) nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước đối với ĐMCN. Cụ thể như sau:
(i) Nhóm nghiên cứu về ĐMCN, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp
Đổi mới công nghệ là một hệ thống các hoạt động phức tạp nhằm chuyển đổi các ý tưởng và kiến thức khoa học thành thực thể vật chất và các ứng dụng trong hiện thực. Đó là quá trình biến đổi tri thức thành các sản phẩm và dịch vụ hữu ích có tác động tới sự phát triển của nền kinh tế và bao gồm tám lĩnh vực: (1) nghiên cứu cơ bản, (2) nghiên cứu ứng dụng, (3) triển khai công nghệ, (4) thực thi công nghệ, (5) sản xuất, (6) marketing, (7) truyền bá, và (8) mở rộng công nghệ (Tarek M Khalil, 2002). Mặt khác, ĐMCN là một hoạt động đồng thời tác động với nhau một cách không tuyến tính; nó không chỉ bao gồm khoa học, kỹ thuật mà bao gồm cả ảnh hưởng của xã hội, nhà nước, thể chế chính trị, văn hóa, kinh tế, chính sách công để tạo ra của cải và chịu ảnh hưởng của ba quĩ đạo tới hạn, đó là: vượt qua đường biên giới, sự xuất hiện các công nghệ mới, kiến thức và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, M.A.Schilling (2009) lại cho rằng ĐMCN là tập hợp các ý tưởng sáng tạo và đòi
hỏi sự cần thiết phải kết hợp ý tưởng sáng tạo, nguồn lực và kỹ năng để hiện thực hóa ý tưởng đó thành sản phẩm mới, qui trình mới.
Vai trò của ĐMCN đối với tăng trưởng kinh tế của một quốc gia:
- Đổi mới công nghệ tác động tới xã hội như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (GDP) và tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa (M.A.Schilling, 2009); đồng thời tốc độ ĐMCN đã trở thành yếu tố hàng đầu ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự thịnh vượng của quốc gia. Nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận rằng tiến bộ công nghệ thông qua ĐMCN là nguồn gốc và là động lực của tăng trưởng kinh tế (Robert Solow, 1987; Boskin and Lau, 1992) [121],[122]. Từ đó cho thấy, tiến bộ của nền văn minh xã hội loài người được gắn liền với tiến bộ của công nghệ.
- Đổi mới công nghệ tạo ra các cơ hội kinh doanh, đồng thời cũng tạo ra những cơ chế trong tăng trưởng kinh tế. Nó chính là cơ sở và điểm khởi đầu cho một chu trình phát triển kinh tế và được gọi là chu trình sóng dài của nền kinh tế, trong đó có nhấn mạnh tới tiến bộ của KH&CN mới dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế mới Trong công trình viết về kỷ nguyên kỹ thuật số đã khẳng định ĐMCN vẫn là yếu tố chủ đạo trong việc tạo ra của cải và đem lại sự tăng trưởng kinh tế (Laure Morel Guimaraes, Tarek M Khalil, Yasser A Hosni, 2005) [111]. Như vậy, công nghệ và ĐMCN là một trong các yếu tố giữ vai trò quan trọng đối với quá trình tạo ra sự thịnh vượng và tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Các yếu tố tổng hợp ảnh hưởng tới hoạt động ĐMCN và quá trình ĐMCN của doanh nghiệp:
- Tarek M.Khalil (2002) đã nghiên cứu và đưa ra bảy yếu tố chi phối ảnh hưởng tới tốc độ ĐMCN, đó là: (1) tình trạng hiện tại của tri thức khoa học, (2) mức độ tăng trưởng của khoa học, (3) loại công nghệ, (4) các pha trong chu kỳ sống, (5) mức độ hứa hẹn của chính sách, (6) khả năng hợp tác tiến bộ công nghệ và (vii) tốc độ lan truyền của các sáng chế. Hơn nữa, tác giả cũng đưa ra tám nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động ĐMCN trong ngành công nghiệp, đó là, (1) sự thay đổi của môi
trường quốc tế, (2) tiến bộ trong truyền thông, (3) nghiên cứu & triển khai đa diện và liên tục, (4) thời gian tiếp thị, (5) sự thúc đẩy từ giáo dục, (6) sự thay đổi trong sự tương tác với thể chế, (7) những thay đổi trong cấu trúc tổ chức, và (8) sự lan tỏa của các nguồn lực cho việc phát triển và thâm nhập công nghệ.
- Ảnh hưởng của khoa học tới ĐMCN: Cho tới cuối thế kỷ 18 mối quan hệ giữa KH&CN còn tương đối độc lập, nhưng nhiều nhà khoa học đã quan sát thấy có sự phát triển song song giữa khoa học và công nghệ. Trong thế kỷ 20 thì hầu hết các công nghệ đều có nguồn gốc từ các khám phá khoa học, chỉ khi khoa học và công nghệ tác động lẫn nhau mới tạo lên sự phát triển bùng nổ của công nghệ. Hay nói cách khác, khi nói tới khoa học là đề cập tới phát minh khoa học, còn khi nói tới công nghệ là đề cập tới sáng chế công nghệ; đây là hai vấn đề có quan hệ mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau. Công nghệ mới ra đời thông qua hoạt động ĐMCN hỗ trợ cho các phát minh khoa học, các phát minh khoa học là cơ sở dẫn tới các sáng chế và thực hiện ĐMCN thành công [123]. Khi khoa học càng phát triển thì sẽ làm cho vòng đời công nghệ giảm xuống từ đó thúc đẩy hoạt động ĐMCN (M.A. Schilling, 2009). Hoạt động đổi mới được Fredrick Betz (1998) cho rằng đó là sự phát minh, phát triển và đưa vào thị trường sản phẩm mới, qui trình mới hoặc là dịch vụ mới có chứa công nghệ mới. Mặt khác, khi KH&CN tiếp cận thị trường chúng sẽ ảnh hưởng tới doanh nghiệp và cuộc sống của con người, đồng thời thị trường có thể chấp nhận hay loại bỏ chúng.
- Ảnh hưởng của thị trường tới ĐMCN và nhấn mạnh vai trò của xã hội đối với ĐMCN của doanh nghiệp: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐMCN bắt đầu từ ý tưởng và kết thúc là chúng được thương mại hóa, nghĩa là chúng được đưa ra thị trường. Để thị trường chấp nhận thì hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp phải đóng góp và tạo nên giá trị gia tăng cho khách hàng; hay nói cách khác mọi đổi mới đều xuất phát từ nhu cầu của xã hội hay phục vụ nhu cầu của xã hội đồng thời xã hội là nơi cung cấp nguồn lực cho đổi mới và cũng là nơi tiếp nhận thành quả của đổi mới [105], [112], [121]. Vì vậy ĐMCN thực sự thành công khi và chỉ khi chúng được thương mại hóa, đưa ra thị trường và được thị trường chấp nhận.
- Một số nghiên cứu chỉ ra rằng lợi thế so sánh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào nguồn lực mà doanh nghiệp đó sở hữu mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ mà doanh nghiệp có được. Mối quan hệ mà doanh nghiệp có được đó, theo một số nhà nghiên cứu gọi là vốn xã hội (tổng hợp [76]): theo Nahapiet & Ghoshal (1998), vốn xã hội giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí giao dịch bằng việc tiết kiệm được chi phí thông tin và cộng tác. Qua nghiên cứu tác động của vốn xã hội tới ĐMCN ở một số doanh nghiệp công nghệ cao, Ylirenco và ctg (2001) đã phát hiện ra mối quan hệ tương hỗ giữa doanh nghiệp, khách hàng chính của doanh nghiệp và kiến thức mà doanh nghiệp nhận được từ các mối quan hệ với khách hàng. Kiến thức nhận được thông qua các mối quan hệ có thể được sử dụng để nâng cấp các sản phẩm, hiểu được các công nghệ phụ trợ và nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm tạo ra sự khác biệt trong phát triển công nghệ của doanh nghiệp. Như vậy, các mối quan hệ trên góp phần gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp và vốn xã hội có thể đóng vai trò quan trọng góp phần tạo nên sự thành công của doanh nghiệp và là yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp.
(ii) Nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước
đối với ĐMCN
Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong việc kích thích các ngành công nghiệp đầu tư cho hoạt động R&D để dẫn tới ĐMCN (H.J.Thamhain, 2005). Đổi mới công nghệ diễn ra ở doanh nghiệp do doanh nghiệp thực hiện và vì lợi ích của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nỗ lực riêng của doanh nghiệp là chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp của Nhà nước trong việc nâng cao nhận thức về các cơ hội công nghệ mới, tăng cường và hỗ trợ trong toàn bộ hệ thống đổi mới để hạn chế các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình ĐMCN [9, tr2]. Nhà nước thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN thông qua các chính sách khuyến khích như hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ về thông tin, thị trường, đào tạo nhân lực công nghệ hoặc thông qua các chính sách buộc các doanh nghiệp phải ĐMCN nếu muốn tồn tại thể hiện ở quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo Luật.
Về trách nhiệm của Nhà nước trong việc hoạch định, tổ chức và thực thi các chính sách liên quan để hỗ trợ các doanh nghiệp ĐMCN. Cụ thể: Y.R.Kim (2001) và Eriksson (2005) về mô hình phát triển công nghệ và chính sách ĐMCN của Hàn Quốc, trong đó nhấn mạnh tới ý chí sẵn sàng thay đổi của người Hàn Quốc và nhấn mạnh tới các chính sách hướng vào ngành công nghiệp; Intarakummerd P (2002) về hệ thống đổi mới quốc gia của Thái Lan; Jomo K.S (2001) về chính sách phát triển công nghệ ở Malaysia; Jop.Holdren (2010) về tạo lập môi trường công nghệ thuận lợi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động ĐMCN ở Mỹ, v.v.
Việc đánh giá tác động chính sách của Nhà nước đối với hoạt động ĐMCN dựa trên các phương pháp khác nhau lại cho kết quả khác nhau (tổng hợp [3, tr25]), cụ thể: Scott, Levin và Reiss (1984) cho các doanh nghiệp Mỹ, Holemans và Sleuwaegen (1988) cho các doanh nghiệp Bỉ, Antonelli (1989) cho các doanh nghiệp Ý, Kleette và Moen (1997) cho các doanh nghiệp Nauy, Dominique Guellec and Bruno van Pottelsberghe de la Potterie (1997) cho các doanh nghiệp thuộc 17 nước OECD. Các nghiên cứu này đã sử dụng mô hình hồi qui để xem xét tác động từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt động R&D của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy có mối quan hệ thuận chiều và có ý nghĩa thống kê giữa hai biến này. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Lichtenberge (1988), Carmichael (1981), Nadiri (1980) lại cho thấy tương quan nghịch. Nghiên cứu này chỉ ra rằng hỗ trợ của Nhà nước quan hệ nghịch với đầu tư R&D nếu những khoản hỗ trợ đó được triển khai dưới cách thức chỉ định, tức là không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để có được sự hỗ trợ. Có nghĩa là sự hỗ trợ của Nhà nước cho R&D chỉ hiệu quả khi doanh nghiệp thực sự có nhu cầu tiến hành các hoạt động R&D. Mối quan hệ này sẽ tỷ lệ thuận nếu có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động ĐMCN được Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích về thuế như giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động R&D, nhập khẩu công nghệ mới. Các ưu đãi này có tác động tích cực đối với đầu tư ĐMCN của doanh nghiệp nhưng chỉ trong thời gian ngắn.
Như vậy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã khái quát được ĐMCN, hoạt động ĐMCN, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp; đồng thời khẳng định được vai trò tích cực, quan trọng của Nhà nước và chính sách nhà nước trong việc hoạch định, tổ chức thực thi các chính sách ĐMCN nhằm hỗ trợ, khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có thể chia thành ba nhóm: (i) nhóm nghiên cứu về ĐMCN, năng lực công nghệ và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp, (ii) nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước đối với ĐMCN, (iii) nhóm nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ĐMCN và chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Cụ thể như sau:
(i) Nhóm nghiên cứu về ĐMCN, trình độ công nghệ, năng lực công nghệ và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp
Đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp đã được nghiên cứu thông qua các luận án tiến sỹ trong thời gian vừa qua như: (1) Phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (Nguyễn Huyền Sơn, 2004); (2) Phương hướng và biện pháp ĐMCN trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu tỉnh Khánh Hòa (Dương Trí Thảo, 2004); (3) Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp in quân đội (Ngô Minh Sơn 2002). Nhìn chung các luận án này cũng đã khái quát được thực trạng ĐMCN ở các doanh nghiệp công nghiệp thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu tỉnh Khánh Hòa, các doanh nghiệp in quân đội. Từ đó đưa ra các giải pháp như cơ cấu lại tổ chức, phát triển nguồn nhân lực, tìm kiếm phát triển thị trường đầu ra cho công nghệ, đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ đổi mới, hoàn thiện lựa chọn qui trình ĐMCN, nâng cao hoạt động đầu tư ĐMCN. Tuy nhiên, các luận án trên cũng chưa làm rõ được các tiêu chí đánh giá chính sách nhà nước tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, thực trạng ĐMCN của các doanh
nghiệp trên địa bàn Hà Nội, cũng như đánh giá của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Nghiên cứu trình độ công nghệ của doanh nghiệp: để xây dựng chính sách KH&CN nói chung và ĐMCN nói riêng cho doanh nghiệp thì một trong những yếu tố quan trọng là đánh giá trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Vấn đề này đã thu hút được sự quan tâm của nhiều cá nhân, tổ chức tham gia với những phương pháp đánh giá khác nhau như phương pháp Focus Group, phương pháp SMART đánh giá trình độ công nghệ tỉnh Gia Lai, phương pháp AHP. Các phương pháp khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau khi đánh giá công nghệ theo bốn thành phần (Phần kỹ thuật, phần con người; phần thông tin và phần tổ chức); tuy nhiên cả ba phương pháp trên đều đánh giá dựa trên mức độ vận hành và mức độ hiện đại của phần kỹ thuật nên kết quả không có sự sai khác nhiều [36],[40],[75].
Nghiên cứu năng lực công nghệ của doanh nghiệp làm cơ sở để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động ĐMCN: trong một đề tài nghiên cứu năng lực công nghệ đã đưa ra bốn chỉ tiêu đánh giá năng lực ĐMCN dựa trên cách tiếp cận của ESCAP (1989), các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: (i) năng lực thích nghi công nghệ nhập, (ii) năng lực sao chép công nghệ đang phổ biến trên thị trường để tiến hành ĐMCN, (iii) năng lực tiến hành những cải tiến nhỏ đến lớn về sản phẩm và qui trình công nghệ, (iv) năng lực tiến hành nghiên cứu và triển khai thiết kế quá trình công nghệ và sáng tạo ra công nghệ hoàn toàn mới [4]. Tuy nhiên, phương pháp đánh giá năng lực ĐMCN còn thiếu hệ thống về phương pháp, nhiều tiêu chí, khái niệm, chuẩn so sánh còn chưa thống nhất (Hội thảo về đánh giá trình độ công nghệ sản xuất do bộ KH&CN tổ chức tháng 2/2009). Cụ thể theo tài liệu hướng dẫn của WEF, chỉ số chung về năng lực công nghệ đối với các nước phát triển là chỉ số sáng tạo công nghệ và chỉ số về công nghệ thông tin - truyền thông, còn đối với các nước đang phát triển là chỉ số về ĐMCN, chỉ số chuyển giao công nghệ và chỉ số công nghệ thông tin - truyền thông (Tạ Doãn Trịnh, 2007 & Tăng Văn Khiên, 2008). Trung tâm APCTT khi tiến hành đánh giá năng lực công nghệ đã tập trung vào đánh giá các yếu tố như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, các hoạt động chuyển đổi công nghệ và cơ sở hạ tầng cho công nghệ phát triển.