* Những Quy Định Trong Chính Sách Thương Mại Hàng Hoá Của Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế Và Khu Vực.

PHỤ LỤC


1 * Những quy định trong chính sách thương mại hàng hoá của tổ chức thương mại quốc tế và khu vực.

Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, tham gia khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, là thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, và đã nộp đơn chuẩn bị các điều kiện để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sau đây là hệ thống hoá một số định chế trong chính sách thương mại hàng hoá của WTO và các tổ chức kinh tế khu vực.

1. Những quy tắc chung về giảm thuế.

- Đối với WTO: Theo quy định của WTO, việc thu thế xuất nhập khẩu phải được tiến hành trên cơ sở quy chế tối huệ quốc (MFN). Điều này có nghiã khi A là thành viên của WTO, qua các cuộc đàm phán thương mại, đồng ý với nước B là sẽ giảm thuế mặt hàng nào đó từ 10% xuống 5% thì mức thuế với này sẽ được áp dụng cho tất các thành viên khác của WTO một cách ngay lập tức và vô điều kiện. Chính nhờ các vòng đàm phán giảm thuế quan đã đem lại lợi ích cho tất cả thành viên của WTO. Đồng thời thành viên WTO cũng không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước thông qua các loại thuế và phí nội địa. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT).

- Với ASEAN và APEC quy tắc chung về giảm thuế được tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO như minh bạch hoá, đãi ngộ quốc gia (NT), quy chế tối huệ quốc (MFN), tự do từng bước và được áp dụng trên nguyên tắc có đi có lại. (Reciprocity).

Theo chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) / AFTA, các sản phẩm đưa vào thực chương trình cắt giảm thuế được chia thành 4 danh mục.

1. Danh mục các sản phẩm giảm thuế với tiến trình giảm nhanh và giảm thường (IL): bao gồm các sản phẩm, các nước thành viên sẵn sàng đưa

vào danh mục cắt giảm thuế ngay. Các thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 20% vào ngày 1.1.1998 và sẽ tiếp tục giảm xuống 0-5% vào 1.1.2003. Các sản phẩm có thuế suất dưới 20% sẽ được giảm xuống 0-5% vào 1.1.2000.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.

2. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): Là danh mục các sản phẩm mà các nước chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay, trước thực tế là nguy cơ các thành viên có thể lợi dụng TEL để tiếp tục bảo hộ, ASEM 26 (1994) đã quyết định các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển sang danh mục cắt giảm ngay hàng năm là 20% kể từ 1.1.1995 đến 1.1.2000 và sau khi một sản phẩm được chuyển từ TEL sang IL, mức thuế suất sẽ giảm xuống 0-5% và 1.1.2003.

3. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): bao gồm các sản phẩm không đưa vào cam kết trong khuôn khổ của CEPT vì các lý do an ninh quốc phòng, bao vệ đạo đức xã hội, cuộc sống con người,… nội dung này dựa trên quy định của WTO tại điều XX. Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT).

Chính sách ngoại thương Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 18

4. Danh mục nhạy cảm (SEL): một số sản phẩm nhạy cảm là hàng nông sản chưa qua chế biến hoặc chế biến thô có thể được một số nước đưa vào SEL để không thực hiện CEPT/AFTA. Theo dự kiến, thuế quan của tất cả các mặt hàng nhạy cảm thuộc SEL sẽ được loại bỏ vào năm 2010.Với APEC, việc giảm thuế cũng phải được làm rõ và công khai, lộ trình giảm thuế tại APEC là tự nguyện, chưa có tính ràng buộc cao như ASEAN. Mức độ cam kết tự do hoá Thương mại của APEC thấp hơn AFTA cả về nội dung và thời gian; APEC chỉ cam kết chung là thực hiện thương mại tự do vào năm 2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang phát triển

2. Những quy định về các biện pháp phi thuế quan trong chính sách thương mại hàng hoá của WTO và ASEAN.

* Những quy định về các biện pháp phi thuế quan trong chính sách thương mại hàng hoá của WTO.

+ Các biện pháp hạn chế định lượng.

- Hạn ngạch: là biện pháp dùng để hạn chế số lượng hoặc trịgiá hàng hoá xuất nhập khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch làm cản trở tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường thế giới, không mang lợi ích cho xã hội. Để hạn chế điều này, WTO quy định ngoài thuế và các phụ phí khác ra, các nước thành viên không được đặt hạn ngạch để hạn chế nhập khẩu sản phẩm từ các nước thành viên khác, hoặc xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm sang nước thành viên khác. Tuy vậy, WTO đã cho phép sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp sau:

1. Đảm bảo an ninh lương thực;

2. Áp dụng biện pháp hạn ngạch (cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu) để thực thi tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại, phân cấp hay tiếp thị sản phẩm trong thương mại quốc tế;

3. Triển khai các biện pháp của Chính phủ được áp dụng đối với nông sản;

4. Bảo đảm cán cân thanh toán;

5. Bảo vệ tình hình tài chính trong hoạt động đối ngoại;

6. Bảo vệ đạo đức xã hội, con người;

7. Bảo vệ động vật, thực vật và tài nguyên quý và khan hiếm…

WTO yêu cầu các thành viên khi áp dụng hạn ngạch để hạn chế nhập khẩu cần cam kết tránh gây tổn thất cho quyền lợi kinh tế và thương mại của các thành viên khác. WTO cũng quy định về việc cấm phân biệt đối xử khi áp dụng hạn ngạch. Việc cấm đoán hay hạn chế phải được thực hiện đối với việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của tất cả các nước hoặc đối với việc xuất khẩu những sản phẩm cùng loại bất kỳ nước nào.

Ngoài các quy định chung về hạn ngạch, đối với sản phẩm nông nghiệp có thể áp dụng một hình thức hạn ngạch đặc biệt gọi là Hạn ngạch thuế quan (Tariff rate quota - TRO). Theo Hiệp định nông nghiệp, các thành viên không được áp dụng biện pháp phi thuế đối với nông sản. Tất cả biện pháp phi thuế cần phải được thuế hoá. Thông thường với mức thuế tại vòng Urugoay thì mức thuế nhập khẩu nông sản hầu như không đáng kể. Tuy vậy, để đảm bảo một mức độ mở cửa thị trường nhất định, WTO cho phép áp dụng biện pháp TRQ, với hai mức thuế suất một mức thấp cho khối lượng hàng hoá trong hạn

ngạch, mức thứ hai có thể tính bằng mức chênh lệch giữa tiêu dùng và sản xuất trong nước. Việc quản lý TRO tuy khó khăn nhưng sẽ đáp ứng được việc người tiêu dùng muốn sử dụng hàng nhập khẩu giá rẻ, đồng thời vẫn bảo vệ được người sản xuất trong nước.

- Giấy phép nhập khẩu: WTO có Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu. Các thành viên của WTO phải đảm bảo thủ tục hành chính để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu không được bóp méo thương mại do việc sử dụng không thích hợp các thủ tục đó. Các quy định đối với thủ tục cấp phép nhập khẩu phải được áp dụng trung lập và được quản lý theo một công thức công bằng và hợp lý.

WTO cũng quy định mọi thông tin và một số hoạt động liên quan thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu như: tiêu chuẩn nhà nhập khẩu, cơ quan tiếp nhận, danh mục hàng hoá phải được công bố để Chính phủ các nước và các nhà kinh doanh nắm bắt được.

Thủ tục nộp đơn và gia hạn ngày càng phải đơn giản. Người nộp đơn được phép có một khoảng thời gian hợp lý để nộp đơn xin cấp phép nhập khẩu. Người làm đơn chỉ phải nộp đơn cho một cơ quan hành chính duy nhất, trong một số trường hợp đặc biệt số cơ quan tiếp cận không được quá 3.

Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu của WTO chia thành 2 trường hợp cấp phép nhập khẩu tự động và cấp phép nhập khẩu không tự động.

*Trường hợp cấp phép nhập khẩu tự động, WTO quy định giấy phép được xét duyệt ngay lập tức, giấy phép không bị hạn chế về khối lượng nhập khẩu, các thành viên không được đặt ra bất kỳ hạn chế nào khác đối với người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu vào bất kỳ ngày làm việc nào, được quyền nhận giấy phép chậm nhất sau 10 ngày (khi nộp đơn có đủ điều kiện).

* Trường hợp cấp phép nhập khẩu không tự động, WTO quy định giảm tối đa các trở ngại cho đối tượng này, chỉ giới hạn ở yêu cầu hết sức cần thiết

cho công tác quản lý nhập khẩu. Thời gian xét duyệt không quá 60 ngày, thời hạn có hiệu lực của giấy phép phải hợp lý, không nên quá ngắn gây ảnh hưởng tới việc nhập khẩu hàng hoá từ xa.

Phân bổ giấy phép của các nước thành viên cần xem xét tình hình nhập khẩu của người nộp đơn. Cụ thể cần đối chiếu giấy phép trong quá trình của người nộp đơn đã được sử dụng hết chưa ?. Trường hợp người nộp đơn chưa sử dụng hết giấy phép đã được cấp, người xét duyệt phải tìm hiểu lý do và cân nhắc khi xét duyệt phân bổ giấy phép mới.

Mặc dù WTO không cho phép dùng hạn ngạch, giấy phép có tính định lượng để hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, nhưng đối với các nước đang phát triển, WTO cho phép sử dụng các biện pháp này trong một thời gian nhất định, thời gian có thể dài hay ngắn phải thông qua đàm phán chứ không được tuỳ ý áp dụng.

+ Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời.

- Quy định về trợ cấp: Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Agreement on Subsidies and Countervailing Measures- SCM) chỉ áp dụng đối với các sản phẩm công nghiệp, còn sản phẩm nông nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định nông nghiệp.

Theo SCM, Chính phủ dành cho các doanh nghiệp những lợi ích mà trong điều kiện thông thường doanh nghiệp không thể có. Lợi ích đó có thể là Chính phủ trực tiếp cung cấp tiền như cho không, cho vay với điều kiện ưu đãi, cấp thêm vốn; Chính phủ bảo lãnh các khoản vay của doanh nghiệp, Chính phủ hoãn các khoản thuế phải thu của doanh nghiệp, và cũng có thể Chính phủ cung cấp hoặc mua hàng hoá, dịch vụ với giá cả có lợi cho doanh nghiệp v.v… Hiệp định SCM chỉ cấm hoặc hạn chế những loại trợ cấp gây tác động tiêu cực đến thương mại của các nước khác.

Quy định cụ thể của từng loại trợ cấp như sau:

- Trợ cấp đỏ là trợ cấp cấm sử dụng, gồm các hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích dùng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu.

- Trợ cấp vàng là trợ cấp được phép sử dụng nhưng có thể bị kiện, đối tượng nhận trợ cấp có thể là một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp, một lĩnh vực công nghiệp hay một nhóm các ngành công nghiệp… Trợ cấp này được phép sử dụng nếu chúng chỉ dừng ở mức không gây tác động tiêu cực đến quyền lợi của các nước khác.

- Trợ cấp xanh là trợ cấp được sử dụng tự do, sử dụng mà không bị khiếu kiện, gồm những trợ cấp mang tính phổ cập như hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, trợ giúp vùng khó khăn trên lãnh thổ của một nước thành viên, hỗ trợ nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu về môi trường.

Các nước thành viên khi bị chịu tác động xấu của các biện pháp trợ cấp được phép sử dụng thuế đối kháng (Còn gọi là thuế chống trợ cấp) đối với những hàng hoá xuất khẩu được trợ cấp. Mức thuế chống trợ cấp do các nước thành viên nhập khẩu đưa ra, mức này có thể đánh ngang với mức trợ cấp của nước xuất khẩu để vô hiệu hoá hình thức trợ cấp.

Thuế đối kháng phải được đánh với mức thuế phù hợp với từng trường hợp và trên cơ sở không phân biệt đối xử. Thời gian áp dụng thuế đối kháng là 5 năm, trong trường hợp có cơ sở xác đáng cho thấy nếu chấm dứt đánh thuế chống trợ cấp vẫn tiếp tục bị thiệt hại cho sản xuất trong nước, thì khiếu nại và sẽ được tiếp tục sử dụng thuế đối kháng.

- Quy định về bán phá giá:

Theo quy định của WTO: Bán phá giá nghĩa là sản phẩm được đưa ra bán ở một nước thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm ấy, và một sản phẩm bị xem là bán phá giá nếu giá xuất của sản phẩm ấy thấp hơn giá của sản phẩm tương tự được tiêu thụ ở thị trường nội địa trong điều kiện bán thông thường.

Trường hợp ở thị trường nội địa không có sản phẩm tương tự, Hiệp định quy định có thể đem sản phẩm ấy so sánh với sản phẩm xuất sang một thị trường thứ ba hoặc so sánh với giá bán trên cơ sở định giá thành phẩm

cộng với một khoản chi phí hợp lý cho quản lý, cho dịch vụ bán hàng, các dịch vụ kèm theo và lãi kinh doanh.

Để có thể áp dụng thuế chống bán phá giá, trước hết phải có đơn khiếu nại về tình trạng hàng nhập khẩu là hàng bị bán phá giá, trên cơ sở đó Chính phủ nước nhập khẩu tiến hành điều tra. Kết quả điều tra phải đưa ra những kết quả sau:

- Số lượng nhập khẩu mặt hàng bị coi là phá giá tăng lên đáng kể, xét cả về giá trị tuyệt đối và tương đối.

- Giá của mặt hàng nhập khẩu đó phải thấp hơn giá của sản phẩm tương tự sản xuất trong nước, làm cho giá sản phẩm tương tự không bán được như giá thường bán.

- Gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho ngành sản xuất tương tự của nước nhập khẩu.

Theo quy định của WTO, việc đánh thuế chống bán phá giá phải dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử, mức thuế không vượt quá mức phá giá. Việc áp dụng thuế chống phá giá sẽ kết thúc trong vòng 5 năm kể từ ngày đánh thuế, trừ trường hợp các nhà chức trách xác định được rằng cần phải tiếp tục đánh thuế chống phá giá để ngăn ngừa hàng nhập tiếp tục gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước.

- Quy định về quyền tự vệ trong thương mại hàng hoá:

Quyền tự vệ có nghĩa là một nước có thể hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp khẩn cấp, khi lượng hàng hoá nhập khẩu tăng đột biến, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng đối một sản phẩm nhập khẩu bất kể từ nguồn nào.

Việc điều tra và xác định tổn hại nghiêm trọng WTO quy định, một nước chỉ có thể áp dụng các biện pháp tự vệ sau khi đã có điều tra của các nhà chức trách có thẩm quyền. Cụ thể là, các nhà chức trách phải đánh giá tất cả các chỉ số kinh tế có liên quan, đặc biệt là tỷ lệ và khối lượng tăng thêm của

hàng nhập khẩu, thị phần mà hàng nhập khẩu chiếm được, những thay đổi trong mức tiêu thụ, sản xuất, năng suất, lãi, lỗ và khả năng tạo việc làm.

WTO cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp tự vệ chỉ ở mức độ cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục những tổn hại nghiêm trọng và tạo điều kiện thuận lợi điều chỉnh ngành công nghiệp có liên quan. Nếu các thành viên sử dụng biện pháp hạn chế số lượng thì không được giảm khối lượng hàng nhập khẩu xuống thấp hơn mức nhập khẩu trung bình 3 năm gần đây, trừ khi chứng minh được mức hạn chế thấp hơn là cần thiết để ngăn cản hoặc khắc phục những thiệt hại rất nghiêm trọng đang diễn ra. Thời gian áp dụng quyền tự vệ không quá 4 năm, tuy vậy WTO cũng nới rộng trong trường hợp đặc biệt cho phép thời hạn có thể kéo dài tới 8 năm tuỳ thuộc vào sự đánh giá của các nhà chức trách có thẩm quyền.

Đối với các nước đang phát triển. WTO dành những ưu đãi trong vấn đề tự vệ ở một chứng mực nào đó, xuất khẩu của các nước đang phát triển không phải chịu ảnh hưởng của các biện pháp tự vệ. Cụ thể là một nước nhập khẩu chỉ có thể sử dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá xuất khẩu của một nước đang phát triển nếu nước đang phát triển cung cấp 3% khối lượng nhập khẩu mặt hàng đó hoặc một nhóm nước đang phát triển cùng nhau chiếm tới 9% tổng khối lượng hàng nhập khẩu của mặt hàng đó (mặc dù mỗi nước chiếm ít hơn 3% khối lượng hàng nhập khẩu).

+ Định giá hải quan và quy chế xuất xứ.

- Định giá hải quan: là việc hải quan một nước xác định giá trị của một lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nước mình. Hiệp định hải quan (Agreement on Customs, Valuation - ACV) là một bộ phận trong chính sách thương mại hàng hoá của WTO, trong đó quy định các nguyên tắc và phương pháp xác định giá trị của hàng hoá nhập khẩu; quy định quyền, nghĩa vụ của hải quan và nhà nhập khẩu. Mục đích của ACV là nhằm bảo đảm việc xác định giá trị hàng hoá nhập khẩu một cách khách quan và công bằng nhằm phát huy tác động tích cực của các ràng buộc thuế đạt được trong các vòng đàm phán của GATT/WTO.

Xem tất cả 172 trang.

Ngày đăng: 16/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí