Những Khuyến Nghị Về Chính Sách Ngoại Thương


mặt hàng này đều đang được nước ta bảo hộ mạnh bằng cả biện pháp thuế và phi thuế.

Đối với các doanh nghiệp độc quyền, Hiệp định thương mại không xử lý triệt để nhưng lại xác lập giới hạn với những mặt hàng sẽ được tiếp tục quản lý bằng các đầu mối nhập khẩu. Những mặt hàng này chủ yếu là các sản phẩm tương đối đặc thù đòi hỏi sự cần thiết phải có sự quản lý chặt chẽ như xăng dầu, máy in, thiết bị rađa, truyền thông, kim cương.

Khác với tự do hoá trong khuôn khổ các thể chế khu vực, WTO cam kết trên các mức thuế trần, được áp dụng trên cơ sở MFN. Vì vậy, trên mọi thời

điểm, mức cam kết của WTO luôn thấp hơn so với các cam kết khu vực. Như vậy khi đưa ra lộ trình cam kết tự do hoá theo WTO sẽ ngày càng tiến sát với các lộ trình tự do hoá khu vực. Việt Nam cần điều chỉnh theo cách thức tiếp cận mới, đó là điều chỉnh mục tiêu của chính sách thương mại từ năm 2003‌

đến năm 2015 trên cơ sở tự do hoá một cách chủ động và đa phương hoá, tạo

điều kiện gia nhập WTO trong năm 2005.

3.3. Những khuyến nghị về chính sách ngoại thương

3.3.1. Chính sách thương nhân

Xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, ổn định, minh bạch, được thực thi nghiêm chỉnh để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tạo điều kiện doanh nghiệp yên tâm, mạnh dạn hoạt động, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.

Để chính sách thương nhân trong thời gian tới phát huy được hiệu quả cần được bổ sung sửa đổi theo hướng sau:

+ Cần thực sự công bằng cho các pháp nhân tham gia hoạt động ngoại thương, các doanh nghiệp FDI thực sự được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu như thương nhân Việt Nam. Hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI, nếu

Chính sách ngoại thương Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 15

để phục vụ cho xuất khẩu, đề nghị không phụ thuộc vào nội dung cấp giấy phép đầu tư.

+ Tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt trong việc tiếp cận nguồn vay của các ngân hàng


thương mại. Tiếp cận nguồn vốn vay không nhất thiết phải có tài sản thế chấp, có thể căn cứ vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đó là:

- Báo cáo hoạt động kinh doanh những năm trước của doanh nghiệp (doanh số, thị trường tiêu thụ sản phẩm, danh mục sản phẩm đang sản xuất)

- Các hợp đồng ký kết sản xuất, kinh doanh đã được triển khai nay đang bị thiếu vốn.

- Các hợp đồng sản xuất kinh doanh với các đối tác nay cần vốn đối

ứng.

+ Tập trung nguồn lực để thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng trung ương

cho SME. Quỹ này sẽ có chi nhánh là các quỹ hỗ trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng tại địa phương. Khi có nhu cầu, doanh nghiệp có thể tiếp cận trực tiếp với các chi nhánh thuộc địa bàn của mình.

3.3.2. Chính sách thị trường

Trong những năm tới chính sách thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam cần thực hiện các nguyên tắc sau:

- Đa dạng hoá thị trường, nhưng ưu tiên thị trường trọng điểm; phát triển thị trường trong nước: nhiều thành phần, mở cửa, tự do hoá...

- Gắn thị trường xuất khẩu với thị trường nhập khẩu, thực hiện nguyên tắc "có đi có lại" trong kinh doanh thương mại theo quy định của WTO.

- Thực hiện chiến lược CNH hướng về xuất khẩu để tạo ra nhiều sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mỗi ngành xuất khẩu cần xác định một cơ cấu hợp lý tại các thị trường trọng điểm,

ưu tiên trên cơ sở thị trường mục tiêu và mở rộng các thị trường tiềm năng.

* Cần chú trọng tới các thị trường mục tiêu và có giải pháp cho từng thị trường trọng tâm, cụ thể như sau:

+ Thị trường Hoa Kỳ

Để khắc phục việc nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ còn tản mạn và thiếu tính định hướng. Bộ Thương mại cần phối hợp các Hiệp hội nhanh chóng nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ theo từng ngành hàng chuyên sâu (ví dụ rau quả


có thể thâm nhập được loại nào, nhu cầu của Hoa Kỳ có gì đặc thù, pháp luật ra sao, cạnh tranh thế nào?...)

Tăng cường thâm nhập mạng lưới phân phối trên thị trường này, trên cơ sở đó đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như giày dép, đồ gỗ, may mặc, thủ công mỹ nghệ, rau quả chế biến, hàng điện tửNgoài ra Bộ Thương mại sẽ xúc tiến nhanh việc thành lập trung tâm giới thiệu sản phẩm tại Hoa Kỳ, đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thành lập văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ.

Nghiên cứu thành lập một bộ phận chuyên trách việc phát triển, đăng ký và bảo vệ thương hiệu của các sản phẩm tại thị trường Hoa Kỳ.

+ Thị trường Nhật Bản

Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại vào thị trường Nhật Bản, thị trường trọng điểm thời kỳ 2003 - 2005. Hướng xúc tiến là hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tham gia Hội chợ triển lãm, tổ chức khảo sát thị trường (tập trung vào các thành phố lớn), phát triển thương hiệu và đăng ký thương hiệu tại thị trường Nhật Bản, phát huy mô hình như "nhà Việt Nam" tại Tokyo để tiến tới thành lập trung tâm Thương mại tại Nhật Bản.

Tích cực vận động và xúc tiến đàm phán ký hiệp định mậu dịch tự do với Nhật Bản (FTA) và ủng hộ liên kết Nhật Bản - ASEAN. Nhanh chóng đề ra phương án trong cả hai trường hợp có sự hợp tác chặt chẽ giữa các Bộ đó là:

1. Nếu Nhật Bản đồng ý đàm phán FTA riêng với Việt Nam

2. Nếu Nhật Bản muốn đàm phán FTA với ASEAN -10.

+ Thị trường Trung Quốc

Để phát huy được lợi thế về vị trí địa lý, với thị trường Trung Quốc, chúng ta cần chú trọng một số biện pháp sau:

- Tăng cường đầu tư cho kết cấu hạ tầng như đường sá, kho tàng, kho ngoại quan, bến bãi tại khu vực Tây Bắc để làm thị trường trung tâm xuất khẩu vào khu vực phía Nam và Tây Nam Trung Quốc.

- Đẩy mạnh quan hệ chính thức theo tập quán quốc tế, dành sự quan tâm thoả đáng cho thương mại vùng biên, tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động tạm nhập - tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu với khách


hàng Trung Quốc. Trọng tâm của mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc là cao su, hải sản, rau quả, hạt điều, dầu thực vật và hàng công nghệ phẩm

- Tổ chức khảo sát thị trường, tham gia hội chợ, xúc tiến việc thành lập trung tâm giới thiệu sản phẩm tại Trung Quốc; Xác định Trung Quốc là thị trường trọng điểm thời kỳ 2003 - 2005

+ Thị trường EU

Việt Nam cần phải tận dụng tối đa chế độ GSP. Do vậy Nhà nước cần phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nắm bắt những cơ hội tại thị trường này.

Đồng thời cần chú trọng nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, đảm bảo duy trì được các mối quan hệ khách hàng nhằm chủ động chuẩn bị cho thời kỳ "hậu GSP". Mục tiêu trong thời gian tới là giữ vững và phát triển thị trường EU khi hết chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập.

Cần chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu vào EU "cũ", tăng cường xuất khẩu vào 10 thành viên mới, cụ thể như sau:

- Tiếp tục đàm phán bãi bỏ hoặc tăng hạn ngạch dệt may

- Tăng cường quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến chế biến xuất khẩu. Mặt khác tăng cường trao đổi, liên kết các nước cùng hàng xuất khẩu, nhất là khu vực ASEAN, để đấu tranh với EU về các vấn đề tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường.

- Tổ chức nghiên cứu thị trường, tham gia hội chợ, triển lãm, xây dựng thương hiệu, thành lập văn phòng đại diện của Hiệp hội

+ Thị trường ASEAN

Đây là thị trường cạnh tranh ngày càng trở nên căng thẳng và quyết liệt hơn, với mức độ sâu, rộng hơn, và với trình độ cao hơn. Việt Nam cần có một chính sách thị trường mềm dẻo, linh hoạt hơn. Tư tưởng chủ đạo của chính sách thị trường ASEAN là tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA đem lại để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường khác.

Bên cạnh hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo và dầu thô, cần chủ

động tận dụng thuận lợi khi ASEAN-6 giảm thuế của hầu hết các mặt hàng


xuống 0-5% để đẩy mạnh xuất khẩu hàng tiêu dùng như hàng may mặc, giày dép, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa.

+ Thị trường Trung Đông và Châu Phi

Châu Phi là một thị trường còn nhiều tiềm năng cho hàng hoá của Việt Nam. Trước mắt cần nhanh chóng triển khai khảo sát nghiên cứu thị trường. Cần có sự hỗ trợ của Nhà nước đế thâm nhập thị trường và tiếp tục ký các thoả thuận thương mại và ký kết hợp đồng xuất khẩu với các nước Châu Phi. Cần nhanh chóng áp dụng các công cụ tài chính, tín dụng mới như chiết khấu chứng từ, bảo hiểm rủi ro không thanh toán.

* Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, bên cạnh việc duy trì và mở rộng thị phần một cách chủ động tại các thị trường trọng điểm, cần đổi mới công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô theo hướng phân định rõ trách nhiệm quản lý vĩ mô của nhà nước, quản lý của hiệp hội và hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp

+ Về phía Nhà nước: Nhà nước thực hiện việc đàm phán thương mại để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp.

Nhà nước cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian tới, cần tăng cường công tác thu thập và phổ biến thông tin thị trường nước ngoài, tình hình chung, cơ chế chính sách của các nước, dự báo cáo chiều hướng cung - cầu hàng hoá và dịch vụ.

Nhà nước hỗ trợ việc thâm nhập và mở rộng thị trường thông qua việc khuyến khích thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và các nhà sản xuất.

Nhà nước sớm có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra thị trường bên ngoài, đặc biệt là khâu chế biến nông sản, thực phẩm để tránh các hàng rào thuế và phi thuế do nước nhập khẩu đặt ra.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, trong thời gian tới Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm mở đường và định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài an toàn, thuận lợi.


Củng cố và tăng cường năng lực của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Cần có những tổ chức liên ngành, chuyên ngành, và cán bộ chuyên trách, đủ trình độ, đảm nhiệm việc quản lý hoạt động

đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài.

Mở rộng, phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Ưu tiên cung cấp các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo lãnh cần thiết cho doanh nghiệp Việt Nam hoạt

động tại nước ngoài thông qua việc ký kết hợp tác kinh tế cấp chính phủ.

Cung cấp thông tin thị trường: chất lượng, giá cả, cung – cầu; thông tin

đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh, (các quy định pháp luật, thủ tục XNK. Các yêu cầu về giấy chứng nhận vệ sinh an toàn, thị hiếu tiêu dùng, hệ thống phân phối hàng); thông tin về môi trường đầu tư, các dịch vụ xúc tiến thương mại (hội chợ, triển lãm, quảng cáo).

Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào thị trường nước ngoài thông qua các biện pháp điều tiết nguồn cung cấp và điều tiết tiến độ xuất khẩu. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu) cần tăng cường áp dụng các biện pháp thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về

điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể để tác động vào thị trường và giá cả theo chiều hướng có lợi.

+ Về phía Hiệp hội ngành hàng: Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi chính phủ, tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có hiệu quả các hoạt động trong sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước. Trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của các Hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết đối với các doanh nghiệp. ë Việt Nam hiện có trên 30 Hiệp hội ngành hàng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Trong nhiều năm gần đây, khi tham gia cuộc chiến thương mại quốc tế, chúng ta mới nhận thức sâu sắc vai trò của Hiệp hội. Các vụ kiện cáo, tranh chấp đều


xuất phát từ Hiệp hội, và đầu mối giải quyết kiện cáo cho doanh nghiệp cũng là Hiệp hội.

Từ thực tiễn về vai trò của Hiệp hội VASEP trong việc điều tiết được thu hoạch cá tra, basa và đưa ra được mức giá sàn, đã giảm sự thiệt hại cho người nuôi cá, hay Hiệp hội Chè đã ra các tiêu chuẩn về sản phẩm chè trên thị trường, qua đó bảo vệ được quyền lợi của các hội viên. Như vậy, Hiệp hội có thể quản lý tốt việc đưa ra hạn ngạch sản xuất, hạn ngạch xuất khẩu, quản lý nguồn lợi tài nguyên để phát triển thị trường một cách bền vững và đấu tranh có hiệu quả với những tranh chấp thương mại.

Với vai trò của Hiệp hội ngày một lớn, cần sớm ban hành Nghị định của chính phủ về tổ chức hoạt động của Hiệp hội. Trong đó định hình hoạt động của Hiệp hội theo các nội dung chính như: Xác định phương hướng phát triển sản xuất - kinh doanh của ngành hàng, các nội dung liên kết sản xuất - tiêu thụ trên cơ sở tự nguyện của hội viên; thay mặt hội viên trong các tranh tụng quốc tế; phổ biến tiến bộ khoa học - công nghệ, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại cho hội viên.

+ Về phía doanh nghiệp

- Tăng cường tiếp cận, phân tích thông tin: Hiện nay, các doanh nghiệp

đang gặp 2 khó khăn: Thứ nhất là khó khăn bắt kịp những thay đổi trong chính sách của Nhà nước, trước hết là chính sách về thuế, tiếp đến là thiếu thông tin chiều sâu về thị trường (hàng rào phi thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch). Thứ hai, một số doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau, kể cả mạng thông tin nước ngoài thì lại lúng túng trong xử lý và nhận định thông tin. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có những nỗ lực trong tổ chức hệ thống thông tin nội bộ và chuyên nghiệp hoá đội ngũ xử lý thông tin.

- Tăng cường tiếp xúc với thị trường nước ngoài:

Doanh nghiệp cần tổ chức nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo ở nước ngoài.

Để những hoạt động này có hiệu quả cao, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng.


- Chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược mặt hàng, thị trường phù hợp với lộ trình hội nhập.

Hiện nay, các hình thức bảo hộ, hỗ trợ của Nhà nước sẽ giảm dần. Các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với môi trường cạnh tranh gay gắt hơn trên cả thị trường trong và ngoài nước. Hướng tăng sức cạnh tranh của hàng hoá chủ yếu là hợp lý hoá quy trình sản xuất và quản lý để giảm chi phí sản xuất; cải tiến mẫu mã hàng hóa, phát triển các dịch bán hàng và sau bán hàng .

- Tiếp cận phương thức kinh doanh mới:

Các doanh nghiệp cần chú trọng thay đổi phương thức kinh doanh, tiếp cận thị trường để nhanh chóng thích ứng với sự biến động của thị trường thế giới. Doanh nghiệp cần đầu tư tìm hiểu lĩnh vực mới như: thương mại điện tử, các nghiệp vụ tự bảo hiểm tại các sở giao dịch kỳ hạn, kinh doanh chứng khoán...

3.3.3. Chính sách mặt hàng

Thứ nhất, cùng với việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, cần xác định một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong tương lai để có những chính sách hỗ trợ phù hợp. Phấn đấu tăng thêm số mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD trong thời gian từ nay đến năm 2007 khoảng 6 đến 7 mặt hàng , đến năm 2010 khoảng 10 mặt hàng, thoả mãn các điều kiện sau:

- Là những mặt hàng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trên thị trường thế giới còn nhỏ nhưng tốc độ tăng trưởng nhanh, trong khi nhu cầu thế giới cao và ổn định, Việt Nam có lợi thế sản xuất.

- Các mặt hàng có tính liên kết cao, nếu xuất khẩu được sản phẩm cuối cùng sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành, trước hết là ngành sản xuất nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu.

- Mặt hàng sử dụng nhiều lao động, ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập

khẩu.

Với những tiêu chí trên các mặt hàng tới năm 2010 có khả năng đạt kim

ngạch trên 1 tỷ USD có thể là phụ tùng, phụ kiện của máy tính và máy văn

Xem tất cả 172 trang.

Ngày đăng: 16/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí