(iv) Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về các nội dung tổ chức thực hiện CSĐTC: Trước khi tổ chức thực hiện CSĐTC, cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp cần tổ chức tập huấn cho các đối tượng liên quan chịu trách nhiệm thực thi CSĐTC: Bộ KH&ĐT, Bộ Tài Chính, UBNS nhà nước, UBNS Quốc hội, và các đối tượng tương đương ở cấp tỉnh.
Sau khi cấp tỉnh được tập huấn, cần tập huấn lại đầy đủ các nội dung cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan nắm rõ được quy trình và cách thức triển khai thực hiện tại địa phương. Đồng thời, phổ biến tuyên truyền các chủ chương và các hoạt động đầu tư công trên địa bàn để người dân biết và chấp hành chủ chương cũng như giám sát thực hiện
2.2.3.2. Tổ chức thực hiện các nội dung c hính sách đầu tư công
Sau khi ban hành các văn bản giao nhiệm vụ cụ thể đối với các bộ ngành ở trung ương và địa phương, cần triển khai thực hiện chính sách đầu tư côngvới các nội dung cụ thể gồm:
(i) Huy động nguồn vốn để thực hiện chính sách đầu tư công: Để thực hiện được chính sách đầu tư công, trước hết cần phải có nguồn vốn để thực hiện. Nguồn vốn để thực hiện chính sách ĐTC đã được quy định rất rõ trong Luật đầu tư công 2014 như đã trình bày tại mục 2.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư công
(ii) Xây dựng, thẩm định, phê duyệt và quản lý các chương trình dự án đầu tư của chính sách đầu tư công, đây là việc làm quan trọng trong chỉ đạo thực hiện, nhằm hướng chủ thể thực hiện (bộ, ngành, địa phương) thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, hạn chế được những rủi ro, đảm bảo chính sách đầu tư công đạt được kết quả và hiệu quả, cũng như mục tiêu của chính sách .
(iii) Xây dựng cơ chế quản lý, phối hợp giữa các tổ chức và đơn vị trong thực thi chính sách đầu tư công: Nội dung này được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 23/CT- TTg, ngày 05/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với các hoạt động đầu tư thuộc chính sách đầu tư công được sử dụng vốn NSNN, với nguồn vốn đầu tư lớn, xây dựng cơ chế quản lý phối hợp là rất quan trọng và có ý nghĩa thiết thực. Việc phối hợp các hoạt động của các bộ, ngành, tổ chức trong tổ chức thực hiện chỉ có hiệu quả và hữu hiệu khi hoạt động tổ chức thực hiện phải theo đúng kế hoạch. Kế hoạch đã được lập ra từ giai đoạn chuẩn bị triển khai, trong đó chỉ rõ được nguồn vốn, đối
tượng đầu tư, cơ quan phối hợp, cơ quan chịu trách nhiệm chung, cơ quan chịu trách nhiệm phối hợp, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan đó.
(iv) Chỉ đạo thực hiện Chính sách đầu tư công: Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, các nhà lãnh đạo cấp Trung ương: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng các bộ có liên quan ban hành những quyết định quản lý đối với cấp địa phương. Ở cấp tỉnh, ra những quyết định quản lý đối với cấp thấp hơn, cho đến từng thành viên của bộ máy tổ chức thực thi chính sách. Trên cơ sở các quyết định đó, toàn bộ các cơ quan thực thi chính sách đầu tư công sẽ được triển khai nhiệm vụ cụ thể trong khuôn khổ thẩm quyền, chức trách của mình và tuân thủ theo quy định của pháp luật.
2.2.3.3. Đánh giá giá kết quả, hiệu quả thực hiện chính sách đầu tư công
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Kết Quả Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án Và Xác Định Khoảng Trống Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Từ Điển Bách Khoa Việt Nam. Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1995, Tr 475.
- Một Số Vấn Đề Chung Về Thực Hiện Chính Sách Đầu Tư Công
- Định Hướng Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội
- So Sánh Tỷ Trọng Các Nguồn Đầu Tư Giữa Đồng Nai Và Cả Nước
- Khái Quát Chung Về Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Và Tác Động Của Chúng Đến Thực Hiện Chính Sách Đầu Tư Công Tại Tỉnh Thái Nguyên
Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.
Là việc xem xét chính sách đầu tư công đã đạt được mục tiêu đề ra hay chưa, các chương trình dự án đầu tư thực hiện đúng tiến độ hay chưa đúng, có cần phải điều chỉnh về thời gian cũng như kinh phí hay không. Đánh giá về lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường mà chính sách đầu tư công mang lại. Để làm được điều này, khâu đánh giá cần chú ý những nội dung sau:
(i) Thu thập thông tin về thực hiện chính sách đầu tư côngthông qua các báo cáo của chủ thể thực hiện (bộ, ngành, địa phương), hoặc thông qua hoạt động kiểm tra giám sát của các cấp (Quốc hội, HĐND các cấp), hoặc thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán của các cơ quan có thẩm quyền…, hoặc thông qua các tổ chức đánh giá độc lập.
(ii) Đánh giá việc triển khai thực hiện chính sách đầu tư công, thông qua các hoạt động đầu tư công trên cả phương diện tác động tích cực và tiêu cực của chính sách, qua đó để thấy được việc thực hiện chính sách đầu tư công có mang lại lợi ích chính yếu cho xã hội. Bên cạnh đó, cũng cần xem xét đánh giá về hiệu lực của chính sách đầu tư, đó là khả năng của Nhà nước bắt buộc và khuyến khích các đối tượng thực hiện chính sách một cách nghiêm túc. Hiệu lực thực tế của chính sách đầu tư công thể hiện ở sự tác động của các dự án đầu tư tới sự phát triển kinh tế- xã hội của lĩnh vực đầu tư.
(iii) Đánh giá hiệu quả chính sách đầu tư công: Do mục tiêu của chính sách đầu tư công không hoàn toàn hướng tới lợi ích kinh tế trực tiếp mà chủ yếu hướng
tới lợi ích xã hội, nên hiệu quả kinh tế, chủ yếu được xem xét ở góc độ xã hội, tức là thực hiện chính sách đầu tư công sẽ mang lại những lợi kinh xã hội thế nào, chẳng hạn, chính sách đầu tư công cho lĩnh vực giảm nghèo thì người nghèo được hưởng lợi ích như thế nào, cải thiện mức độ nghèo đói của người dân, hay tỷ lệ giảm nghèo tăng giảm…
2.2.3.4. Điều chỉnh thực hiện chính sách đầu tư công
Điều chỉnh là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách đầu tư công, để chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế để thực hiện có hiệu quả chính sách , miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách đầu tư công.
Thông qua kết quả đánh giá thực hiện chính sách đầu tư công, để thấy được những mặt được những hạn chế trong quá trình triển khai để tiến hành điều chính sách . Đối với các chương trình, dự án đầu tư trong phạm vi thực hiện chính sách đầu tư công thường có vốn đầu tư lớn, thời gian thực hiện dài, kể cả không gian thực hiện chính sách rộng, nên việc điều chỉnh là cần thiết, có thể điều chỉnh về vốn, có thể điều chỉnh về thời gian và không gian để thực hiện để đảm bảo chính sách có hiệu quả tối ưu. Tuy nhiên, cần hết sức thận trọng trong điều chỉnh, chỉ điều chỉnh khi thực sự cần thiết và phải làm rõ nguyên nhân và trình cấp có thẩm quyền quyết định, nếu không rất có thể sẽ gây ảnh hưởng lớn đến cả chủ thể ban hành chính sách và chủ thể thực hiện chính sách đầu tư công. Lưu ý, chỉ điều chỉnh các biện pháp thực hiện, không điều chỉnh mục tiêu, nếu điều chỉnh mục tiêu thì đồng nghĩa với việc ban hành chính sách mới.
Cấp tỉnh chỉ có thể điều chỉnh tiến độ thực hiện chính sách đầu tư công thuộc thẩm quyền của tỉnh, không có chức năng điều chỉnh chính sách, nhưng có thể kiến nghị với Chính phủ để điều chỉnh chính sách, nếu quá trình thực hiện phát hiện những bất cập hoặc những điểm chưa phù phợp của chính sách đầu tư công
2.2.3.5. Theo dõi, kiểm tra đôn đốc thực hiện chính sách đầu tư công
Việc theo dõi, kiểm tra đôn đốc thực hiện là một trong những nội dung rất quan trọng trong thực hiện chính sách đầu tư công của cơ quan thực hiện. Căn cứ
vào kế hoạch triển khai thực hiện đã xây dựng để theo dõi, kiểm tra đôn đốc nhằm phát hiện, đánh giá một cách khách quan về những điểm mạnh, những điểm yếu trong tiến trình thực hiện, phát hiện những thiếu sót trong việc lập kế hoạch thực hiện để kịp thời điều chỉnh, tạo điều kiện tốt nhất để phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, tổ chức, đối tượng thực hiện chính sách đầu tư công, tạo sự tập trung thống nhất trong thực hiện mục tiêu chính sách. Việc thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đầu tư công nhằm động viên khuyến khích kịp thời những nhân tố tích cực trong thực hiện chính sách, cũng như phát hiện và kịp thời ngăn chặn những tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện.
Ở cấp tỉnh, bước này cũng cần thực hiện một cách nghiêm túc để việc thực hiện đảm bảo đúng tiến độ như kế hoạch đã đề ra, đồng thời phát hiện những khó khăn vướng mắc của các đơn vị thực hiện, để giải quyết kịp thời tháo gỡ đảm bảo các dự án, chương trình đầu tư công thực hiện có hiệu quả là cơ sở để thực hiện tốt chính sách đầu tư công
2.2.3.6. Tổng kết thực hiện chính sách đầu tư công
Sau một khoảng thời gian triển khai nhất định cần tiến hành tổng kết thực thực hiện, nhằm đánh giá kết quả đạt được các mục tiêu đề ra theo tiến độ thời gian và lĩnh vực đầu tư. Tổng kết thực hiện chính sách đầu tư công được thực hiện theo các nội dung sau:
(i) Đánh giá kết quả đạt được trên các phương diện: Kinh tế, chính trị, xã hội, các đối tượng được hưởng lợi do CSĐTC mang lại, những mặt tiêu cực của chính sách: Các hạn chế, các tác động tiêu cực về mặt kinh tế, chính trị - xã hội và môi trường khi thực hiện chính sách, cần đánh giá cả phương diện thực hiện vốn và tiến độ thực hiện chính sách của các hoạt động thuộc chính sách đầu tư công.
(ii) Phân tích các mặt được, các mặt hạn chế, thiếu sót, bất cập trong quá trình triển khai để tìm ra nguyên nhân.
(iii) Đưa ra các kiến nghị thích hợp để điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn. Cụ thể, cần điều chỉnh Luật đầu tư công ở những điều nào, mục nào, thậm chí có thể cần điều chỉnh cả những luật khác cho phù hợp: Luật Ngân sách Nhà nước, Luật đấu thầu, Luật đất đai…
Ở cấp tỉnh sẽ tiến hành tổng kết thực hiện các hoạt động đầu tư công theo các
thời điểm khác nhau: 6 tháng, tổng kết năm hoặc chuẩn bị các kỳ họp HĐND, Đại hội Đảng… nhằm có được những kết quả sơ kết quý, tổng kết năm, hoặc báo cáo HĐND, UBND, báo cáo Đại hội. Các báo cáo này cũng đánh giá theo các nội dung nêu trên nhưng chỉ phục vụ cho các mục đích khác nhau mà lãnh đạo yêu cầu. Cấp tỉnh không tiến hành tổng kết thực hiện chính sách ở tầm vĩ mộ
2.3. Các tiêu chí đánh giá tổ chức thực hiện chính sách đầu tư công
2.3.1. Tiêu chí đánh giá về quy trình thực hiện chính sách đầu tư công
- Công tác xây dựng kế hoạch thực hiện: Tiêu chí này nằm trong khâu chuẩn bị thực hiện, cần xem xét việc lập kế hoạch triển khai thế nào, việc ban hành văn bản chỉ đạo ra sao, có phù hợp với điều kiện thực tiễn triển khai. Nếu không lập kế hoạch, hoặc kế hoạch lập không tốt thì việc triển khai khó có thể thành công.
- Công tác tổ chức thực hiện: Chỉ tiêu này, cần xem xét trên khía cạnh phối hợp nguồn lực trong tổ chức thực hiện như thế nào. Việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo thực hiện, nguồn vốn đáp ứng nhu cầu thực hiện chính sách đầu tư công, năng lực cán bộ thực thi chính sách …
- Thực hiện đúng các bước trong quy trình: Đây là chỉ tiêu nhằm xem xét quá trình thực hiện có tuân thủ theo quy trình đã đề ra hay không, thêm hay bớt nội dung trong quy trình, việc thêm/bớt đó có ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách đầu tư công.
2.3.2. Các tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách đầu tư công
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng đầu tư công: Đây là chỉ tiêu biểu hiện khối lượng vốn đầu tư công từ NSNN vào các chương trình, dự án và các đối tượng đầu tư công khác theo quy định của Luật Đầu tư công. Tốc độ tăng trưởng đầu tư công là thể hiện tỷ lệ tăng vốn đầu tư từ NSNN nhà nước cho lĩnh vực đầu tư công hàng năm là được tính bằng phần trăm (%). Công thức tính:
Tốc độ tăng trưởng đầu tư công (%) = x 100 Trong đó: K: Quy mô vốn đầu tư công
: Lượng tăng vốn đầu tư công của kỳ sau so với kỳ trước
- Tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội: Là khối lượng của
vốn đầu tư công so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội (%). Trong đó vốn đầu tư toàn xã hội là tổng lượng vốn bỏ ra (chi tiêu) để làm tăng hoặc duy trì năng lực sản xuất và nguồn lực để nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của toàn xã hội trong một thời kỳ nhất định. Công thức tính như sau:
g (%) = x100
- Cơ cấu vốn đầu tư công theo ngành, lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội: Là tỷ lệ vốn đầu tư công được phân bổ theo ngành theo lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Thông qua chỉ tiêu này cho biết được lượng vốn đầu tư công được đầu tư cho các ngành như thế nào, trên cơ sở đó biết được lĩnh vực nào đang được ưu tiên đầu tư, lĩnh vực nào chưa được chú trọng đầu tư phát triển để có những kiến nghị đề xuất.
- Cơ cấu vốn đầu tư công theo phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công: Là tỷ lệ vốn đầu tư công do cấp trung ương quản lý và địa phương quản lý hàng năm. Qua đây có thể thấy được lượng vốn đầu tư công trên địa bàn do Trung ương quản lý là bao nhiêu, địa phương quản lý. Thông qua đây để có thể thấy được quy mô của các dự án đầu tư công, cũng như có thể đánh giá được mức độ chồng chéo trong quản lý đầu tư công.
- Cơ cấu đầu tư/GDP: Là tỷ lệ % đầu tư công trên GDP, nhằm đánh giá được lượng vốn đầu tư công hàng năm để thấy được lượng vốn đầu tư cho các lĩnh vực công mang lại lợi ích kinh tế xã hội.
2.3.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách đầu tư công
- Hiệu quả đầu tư công: Hiệu quả đầu tư công được đánh giá bằng chỉ số ICOR. Chỉ số ICOR vừa là kết quả, vừa là hiệu quả, vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư. ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh quan hệ so sánh giữa chỉ tiêu đầu vào là vốn đầu tư thực hiện và chỉ tiêu đầu ra là kết quả sản xuất đạt được. ICOR có trị số càng thấp có nghĩa là hiệu quả càng cao và ngược lại vì Việt Nam vẫn sử dụng nhiều lao động hơn so với vốn đầu tư để tạo ra tăng trưởng kinh tế. Khi ICOR càng cao, chứng tỏ việc sử dụng vốn đầu tư chưa hợp lý, kém hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát vốn trong quá trình đầu tư. Công thức tính như sau:
ICORt,o = Dt(c)/Iq
Trong đó: Dt (c) = Vt(c)/Gt (c): Tỷ lệ vốn đầu tư công Vt(c) so với GDP năm nghiên cứu Gt(c) (cùng tính theo giá cố định); Iq: Tốc độ tăng GDP năm nghiên cứu so với năm gốc.
Ngoài ra, luận án còn đề cập tới một số chỉ tiêu định tính phản ánh tác động của việc thực hiện chính sách đầu tư công đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung: Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; Lĩnh vực giảm nghèo, lĩnh vực giao thông vận tải, an ninh quốc phòng, y tế, giáo dục… Thực hiện chính sách đầu tư công đã làm thay tác động đến các hoạt động nông lâm nghiệp, thay đổi diện mạo nông thôn, y tế, giáo dục được cải thiện như thế nào được đánh giá thông qua báo cáo cũng như thông qua việc phỏng vẫn các chuyên gia.
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đầu tư công
Quá trình triển khai thực hiện chính sách đầu tư công thường diễn ra trong thời gian dài, có liên quan đến nhiều cơ quan, bộ ngành, tổ chức, cá nhân, nên việc tổ chức thực hiện cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Có thể chia ra thành 2 nhóm là khách quan và chủ quan. Các nhân tố khách quan là những tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách . Chẳng hạn, nâng cấp kết cấu hạ tầng cơ sở là đòi hỏi bức thiết của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các yếu tố chủ quan là những ảnh hưởng này sinh trong quá trình triển khai thực hiện: Năng lực của chủ thể triển khai chính sách , năng lực của đối tác thực hiện các hoạt động đầu tư công, năng lực cán bộ thực hiện…
2.4.1. Nhân tố khách quan ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đầu tư công
2.4.1.1. Môi trường thực hiện chính sách đầu tư công
- Môi trường tự nhiên gồm vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thời tiết: Là nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến việc thực thi chính sách đầu tư công. Việc thực hiện chính sách đầu tư công cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố không lường trước được như thiên tai, dịch bệnh, đây là những yếu tố khách quan khiến cho việc tổ chức thực hiện khó dự báo trước. Chẳng hạn, vừa đầu tư vốn lớn cho một công trình nào đó: Giao thông, giáo dục hoặc các công trình vui chơi giải trí, nhưng gặp phải thiên tai (bão lụt bất thường) có thể mất toàn bộ công trình, theo đó, nguồn vốn đầu tư công cũng tổn thất toàn bộ. Vì vậy, ảnh hưởng đến tiến độ tổ chức triển khai, cũng như
kinh phí thực hiện. Hoặc với những địa hình phức tạp cũng gây ra nhiều khó khăn cho việc triển khai thực hiện, có thể phải kéo dài thời gian, tốn kém về kinh phí…
- Môi trường kinh tế - xã hội như tình trạng phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, các rủi ro từ sự biến động kinh tế thế giới, và trong nước: Sự biến động kinh tế thế giới ảnh hưởng lớn đến việc thực thi chính sách đầu tư công, nhất là đối với các nước kém và chậm phát triển. Nước ta hiện nay đã là quốc gia có thu nhập trung bình, nhưng nguồn vốn để thực hiện chính sách đầu tư công còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài trợ cũng như vay nợ nước ngoài. Sự biến động kinh tế thế giới (đại dịch Covid 19 từ cuối năm 2019) ảnh hưởng rất lớn đến thực hiện chính sách đầu tư công: Các chương trình, dự án đang thi công có thể phải tạm dừng do dịch bệnh diễn biến phức tạp, theo đó, ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện công trình, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách đầu tư công ở các địa phương… Các nhân tố này có thể xảy ra với bất kỳ quốc gia nào, địa phương nào, chính vì vậy, cần phải có sự tính toán kỹ lưỡng, lường trước được các rủi ro để giảm thiểu các thiệt hại xảy ra trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư công.
2.4.1.2. Bối cảnh chính trị khi thực hiện chính sách đầu tư công
Bối cảnh chính trị bao gồm cả trong nước và quốc tế: Hệ tư tưởng chính trị, các thiết chế chính trị cũng như những mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội. Bối cảnh chính trị ổn định sẽ là cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện chính sách nói chung và chính sách đầu tư công. Đối với chính sách đầu tư công, nguồn lớn vốn được lấy từ NSNN để thực hiện các hoạt động đầu tư công, trong bối cảnh chính trị tốt việc thực hiện sẽ mang lại hiệu quả tốt, đạt được mục tiêu. Những biến đổi trong hoàn cảnh chính trị trong nước và quốc tế cũng tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện chính sách đầu tư công. Tình hình biến động chính trị trong nước và quốc tế, đặc biệt là trong nước có thể thúc đẩy, hoặc cũng có thể hạn thực hiện chính sách đầu tư công (chuẩn bị bầu cử, thời điểm chuyển giao quyền lực…). Thậm chí, khi Chính phủ thay đổi có thể sẽ thay đổi cách thức tổ chức thực thi chính sách , hoặc cũng có thể thay đổi cả chính sách . Đảng ta chủ trương kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, nên rất thuận lợi cho việc