Tuy nhiên, JDI lại đặc biệt có ý nghĩa đối với ASEAN trong việc thực hiện nội dung thứ hai của chương trình nói trên.
ASEAN có thể không có được sự gia tăng xuất khẩu nhanh chóng trong mấy thập kỷ vừa qua nếu không có đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, vốn bằng xuất khẩu chủ yếu là gạo, FDI đã biến Thái Lan trở thành một nước có sản phẩm xuất khẩu chính là hàng chế tạo. Nếu năm 1965, xuất khẩu chỉ chiếm 13,5% GDP của Malaixia thì đến năm 1994, khi đã có sự can thiệp của FDI, tỷ lệ này đã lên tới 82,9%...
Bên cạnh việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động thương mại, các công ty đầu tư Nhật Bản còn lôi cuốn các công ty địa phương trong những ngành có liên quan cùng tham gia vào dây chuyền sản xuất của mình. Như vậy, các mô hình đầu tư của Nhật đã trực tiếp thúc đẩy hoạt động thương mại trong nội bộ nước thành viên ASEAN với nhau cũng như trao đổi thương mại giữa ASEAN với Nhật Bản và thị trường còn lại của thế giới. Ngoài ra, sự có mặt của các nhân viên người Nhật cùng thân nhân của họ đã tạo cho ASEAN một cơ hội để xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, những thứ mà không thể hoặc khó có thể xuất khẩu được dưới các hình thức thông thường, như: điện, nước sinh hoạt, như yếu phẩm, dịch vụ y tế và giáo dục…
Tóm lại, với các chiến lược hoạt động của mình, TNCs Nhật Bản góp phần to lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong hàng xuất khẩu của các nước trong khu vực Châu Á nói chung, ASEAN nói riêng trên thị trường thế giới, tạo điều kiện gia tăng kim ngạch xuất khẩu, tác động tích cực đến cán cân thương mại của hầu hết các nước đang phát triển trong khu vực.
3.2.2.4. Một số tác động khác
Do trình độ công nghệ trong khu vực còn thấp nên hạn chế khả năng chuyển giao công nghệ hiện đại của TNCs Âu – Mỹ cho các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, điều đó dẫn tới tính phụ thuộc của các nền kinh tế này vào công nghệ của TNCs Nhật Bản ngày càng nhiều hơn. Điều đó cũng có nghĩa
là tiến trình gia tăng hội nhập vào khu vực của nền kinh tế Đông Á và ASEAN sẽ góp phần đẩy mạnh tiến trình khu vực hóa cũng như mở cửa giao lưu với các khu vực khác và với toàn thế giới. Tuy nhiên, một tất yếu khách quan kéo theo đó là khi có sự cố hoặc sự thay đổi chiến lược thì nền kinh tế bản địa sẽ bị ảnh hưởng và khó khăn. Vì vậy để giảm thiểu những tác động xấu từ các chiến lược hoạt động của TNCs nói chung và TNCs Nhật Bản nói riêng, các nước đang phát triển trong khu vực cần ý thức rõ tầm quan trọng của vốn đầu tư từ TNCs, song, cũng không thể thu hút FDI nhiều bằng mọi giá, mà cần đảm bảo chất lượng trong việc sử dụng FDI từ các TNCs. Mặt khác cần có những chính sách hợp lý sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư từ TNCs Nhật Bản nhằm đảm bảo tính tự chủ của nền kinh tế, đồng thời giải quyết tốt nhất các vấn đề xã hội nảy sinh từ đầu tư của TNCs.
Chuyển giao công nghệ còn hạn chế: thông qua các chiến lược hoạt động và đầu tư, TNCs Nhật Bản đã góp phần chuyển giao công nghệ tiên tiến, nhưng không phải là công nghệ tiên tiến nhất. Họ chỉ chuyển giao công nghệ loại 2 và loại 3, thậm chí cả công nghệ gây ô nhiễm môi trường, nếu như vấn đề thẩm định, tiếp nhận của các nước nhận đầu tư không tốt. Ngoài ra, việc thực thi chiến lược của TNCs Nhật Bản còn gây ra những hạn chế khác có thể có như: gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư giữa các vùng trong một số quốc gia; việc đào tạo cán bộ quản lý ở các xí nghiệp liên doanh chưa kịp thời; trốn thuế, gian lận thương mại, gian lận giá trong chuyển giao công nghệ… Tất cả những vấn đề trên cũng là một tất yếu khách quan trên con đường mở cửa hội nhập của các nước đang phát triển.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản và hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Môi Trường Kinh Doanh Trong Khu Vực Và Quốc Tế
- Đánh Giá Chung Về Chiến Lược Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Công Ty Xuyên Quốc Gia Nhật Bản
- Những Thay Đổi Về Cơ Cấu Công Nghiệp Và Xuất Khẩu Nhật Bản
- Chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản - 13
- Chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Sau khi đi nghiên cứu về các chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản và những tác động điển hình đến nền kinh
tế Nhật Bản cũng như nền kinh tế các nước trong khu vực, đặc biệt chú trọng đến các nước đang phát triển trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam, thì ta thấy vẫn còn có một số hạn chế như đã nêu ở phần trên. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm phát huy những thuận lợi đồng thời khắc phục những tồn tại của môi trường đầu tư của các nước trong khu vực (đặc biệt các nước đang phát triển), tạo niềm tin, thu hút đầu tư của các TNCs Nhật Bản nhiều hơn nữa và góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
Kinh nghiệm từ các nước thành công trong việc thu hút FDI của TNCs Nhật Bản như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia cho thấy việc làm quan trọng nhất tác động đến thu hút FDI của TNCs là:
Một là, phải nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư và chính sách đầu tư. Đối với nhà đầu tư, mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, ở đâu có lợi nhuận cao thì đầu tư vào đó. Khi xác định được phương án đầu tư, nhà đầu tư quan tâm đến rất nhiều vấn đề, trong đó quan trọng là cơ chế, chính sách và luật pháp của nhà nước. Do vậy, điều tất yếu để thu hút được FDI của TNCs có hiệu quả là chúng ta phải cải thiện môi trường đầu tư.
Trước hết, phải đảm bảo ổn định vững chắc về kinh tế và chính trị. Không ngừng củng cố và mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị đối ngoại, cải thiện vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đồng thời phải ổn định an ninh - xã hội vì đó là yếu tố làm lành mạnh và ổn định môi trường kinh doanh. Đặc biệt cần xử lý nghiêm minh các vụ án kinh tế và các vụ án hình sự. Tiếp đó là tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – kỹ thuật tạo tiền đề, cơ sở thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng các khu kinh tế mở, các đặc khu kinh tế và hệ thống sân bay, bến cảng có tính khu vực và quốc tế. Tiếp tục nâng cấp các hệ thống kết cấu hạ tầng, có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó có các công trình giao thông, cảng biển… Và cũng cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện
và xây dựng đồng bộ, nhất quán các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp luật phải hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao. Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng… Bên cạnh đó, đổi mới và hoàn thiện chính sách về đầu tư nước ngoài cũng rất cần thiết. Cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính trong thu hút đầu tư nước ngoài. Quy định rõ ràng, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, rà soát, bãi bỏ các quy định về thủ tục đang cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài… Xây dựng chính sách ưu đãi minh bạch, rõ ràng, ổn định có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thu hút vốn FDI, và đặc biệt đối với vốn của Nhật Bản. Nên: (1) Miễn giảm thuế thu nhập, thuế công ty, thuế tài sản cho những nhà đầu tư nước ngoài, nếu họ tham gia vào những dự án đáp ứng một trong những yêu cầu có khả năng cải thiện cán cân thanh toán, đòi hỏi kỹ thuật – công nghệ cao, khối lượng vốn lớn… (2) Chính sách tài chính cởi mở tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể cho TNCs có quyền thế chấp tài sản hoặc cầm cố tài sản, kể cả tài sản ở nước ngoài và thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn… (3) Chính sách thương mại và chính sách giáo dục cũng cần phải thông thoáng. Không ngừng tạo điều kiện tự do hóa thương mại và đầu tư cho giáo dục.
Có thể sử dụng biện pháp “phân biệt đối xử ưu đãi – ưu tiên khoanh vùng” đối với đầu tư của TNCs Nhật Bản. Những chính sách ưu tiên khoanh vùng cho những TNCs Nhật Bản, ví dụ như: ưu đãi thuế; miễn – giảm các loại phí; cắt giảm một số thủ tục pháp lý nếu được Chính phủ Nhật bảo lãnh… Những ưu tiên đặc biệt đối với TNCs Nhật Bản xuất phát từ hai lý do: (1) Qua phân tích ở chương 2 cho thấy, trong những công nghệ mà TNCs chuyển giao cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì công nghệ của TNCs Nhật Bản đạt trình độ cao hơn cả, đa phần là công nghệ đạt trình độ trung bình và khá trên thế giới (trong khi TNCs của Châu Âu và Mỹ chỉ chuyển
giao công nghệ lạc hậu là chính). (2) Trong số các TNCs đến các nước đang phát triển trong khối ASEAN, xét thấy TNCs trong lĩnh vực điện máy chiếm đa số, đây lại là thế mạnh của TNCs Nhật Bản về sản xuất hàng chế tạo.
Bên cạnh chính sách ưu tiên khoanh vùng đối với đầu tư của TNCs Nhật Bản, cần tích cực chủ động, nhanh chóng cải tiến thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư của TNCs. Thủ tục hành chính quá chậm, kém hiệu suất cũng làm cho môi trường đầu tư xấu đi dù nội dung của luật rất hấp dẫn. Trong thời đại công nghệ thông tin, mọi giao dịch trên thương trường tiến hành rất nhanh. Tuy nhiên, giữa những công ty có một khả năng nhất định, nhất là các công ty có vốn nước ngoài, tốc độ giao dịch không khác nhau nhiều. Nhưng nổi cộm lên là sự khác biệt trong tốc độ xử lý hành chính của cơ quan nhà nước, nước nào có tốc độ nhanh về mặt này mới chớp được các thời cơ, tăng sức cạnh tranh tổng hợp của cả nước. Việt Nam hiện nay vẫn là một trong những nước kém nhất ở Châu Á về tốc độ cải cách hành chính. Theo điều tra của Quỹ đầu tư nước ngoài (trụ sở ở Tokyo) vào năm 2003, 42% các doanh nghiệp Nhật được điều tra cho rằng khó khăn lớn của họ khi hoạt động tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi đó, chỉ có 13% doanh
nghiệp Nhật ở Thái Lan, 18% ở Philippin và 22% ở Indonesia than phiền về tốc độ cải cách hành chính25.
Hai là, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, quảng cáo ở mọi cấp độ, mọi lúc, mọi nơi. Nhiều năm trước đây, việc tiếp thị môi trường đầu tư của các nước chủ nhà còn bị coi nhẹ. Hiện nay, hoạt động quảng cáo , xúc tiến thương mại và đầu tư nói chung, với Nhật Bản nói riêng được thực hiện rầm rộ hơn, dưới nhiều hình thức như: tổ chức hội thảo, giới thiệu tiềm năng, thăm viếng của các chính khách, các đoàn ngoại giao, doanh nghiệp… Có nhiều cuộc hội thảo đã diễn ra, giới thiệu về tiềm năng và môi trường đầu tư của nước mong
25 Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường Công nghiệp hóa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.223-245
muốn nhận đầu tư (trong đó có Việt Nam) được tổ chức chủ yếu ở ba thành phố lớn của Nhật Bản, là Tokyo, Nagaya và Kanazawa. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển nhịp độ đầu tư, các nước nên xúc tiến quảng cáo, giới thiệu tiềm năng đầu tư đối với TNCs Nhật Bản như một hoạt động thường xuyên, liên tục thay vì làm theo “chiến dịch”. Đặc biệt nên tạo điều kiện và cử người tìm cách tiếp xúc trực tiếp với đội ngũ lãnh đạo cấp cao của TNCs Nhật Bản. Nghiên cứu chiến lược hoạt động của họ, trình độ công nghệ của họ ở từng lĩnh vực, từ đó đánh giá chính xác xem mình đang ở “tầng tháp mấy” của “tòa tháp” công nghệ của TNCs Nhật Bản. Mặt khác, cần nghiên cứu luật pháp, chiến lược và chính sách của Chính phủ Nhật Bản, nghiên cứu kỹ chiến lược của từng TNCs Nhật Bản mình mong muốn mời gọi đầu tư, hiểu rõ quy mô, loại hình doanh nghiệp trong từng lĩnh vực không chỉ đối với TNCs mà còn đối với cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản để có biện pháp xúc tiến đầu tư, mời gọi bằng được những TNC, những doanh nghiệp có tiềm năng đối với dự án.
Ba là, phải quan tâm hơn đến việc cải thiện điều kiện hoạt động của các dự án đã và đang được triển khai, “tiêu hóa” triệt để vốn đăng ký từ TNCs Nhật Bản. Các công ty nước ngoài đã đến đầu tư sẽ mở rộng các dự án hiện tại hoặc đầu tư thêm các dự án mới hay không còn tùy thuộc vào tình hình hoạt động hiện nay của họ. Tình hình này cũng tác động trực tiếp đến quyết định của các nhà đầu tư chưa đến nhưng đang đặt nhiều niềm tin và sự lựa chọn tiếp theo của mình vào doanh nghiệp đó. Điều này đặc biệt quan trọng vì tính khả thi và hiệu quả của các dự án đã triển khai có tác động đến nhà đầu tư nước ngoài nhiều khi là cao hơn rất nhiều so với các hoạt động quảng cáo hay mời gọi khác, vì nó là một biểu hiện cụ thể minh chứng rằng môi trường và điều kiện hoạt động kinh doanh của nước sở tại, nước nhận đầu tư là rất tốt. Để làm được điều đó, phải thực hiện tốt và thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai các dự án đầu tư của TNCs.
- Cần thực hiện tốt vai trò quản lý của đối tác tham gia liên doanh, nhằm thúc đẩy tiến độ triển khai dự án, nâng cao hiệu quả kinh doanh và đấu tranh cho quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và người lao động. Hỗ trợ những dự án đang hoạt động bằng việc chủ động điều chỉnh giấy phép đầu tư để dự án được hưởng ngay các ưu đãi mới.
- Tổ chức kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư của TNCs về việc thực hiện tiến độ góp vốn, xác định giá trị góp vốn (đặc biệt góp bằng thiết bị, công nghệ), hạch toán kinh doanh, quyết toán với công trình xây dựng và giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc xảy ra trong quá trình triển khai dự án cũng như có biện pháp kiên quyết với các dự án, chủ đầu tư vi phạm pháp luật, thực hiện đúng quy định trong giấy phép đầu tư.
- Tập trung cao độ công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án FDI hoạt động có hiệu quả bằng cách nhanh chóng hình thành. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan giám định, kiểm toán, thẩm định đối với các dự án có vốn đầu tư của TNCs. Quản lý chặt chẽ quá trình chuyển giao công nghệ, nhập máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của TNCs, tránh trường hợp các doanh nghiệp nhập khẩu những công nghệ và thiết bị quá lạc hậu.
- Tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng có liên quan để vừa phát huy tính chủ động của địa phương vừa tránh phá vỡ quy hoạch.
- Coi trọng quy trình “hậu kiểm” các dự án, trong đó quản lý chặt chẽ khâu đầu tư xây dựng cơ bản, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm về xây dựng, thiết kế đã được duyệt. Định hướng phát triển kết cấu hạ tầng, thống nhất đồng bộ các chính sách có liên quan đến kết cấu hạ tầng cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của TNCs.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho tăng cường hợp tác kinh tế với Nhật bằng cách tích cực chủ động xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách phục vụ cho các hoạt động kêu gọi đầu tư được đào tạo tại Nhật Bản, tìm cách đưa người đi học tại các cơ sở đào tạo của chính TNCs Nhật Bản. Thực tiễn cho thấy, nhân tố con người đóng vai trò quyết định sự thành công của nhiều hoạt động quan hệ kinh tế quốc tế. Để đẩy mạnh đầu tư của Nhật Bản, các nước phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cả chuyên môn và ngoại ngữ. Thành quả của quan hệ hợp tác kinh tế không dừng lại ở quan hệ chính trị, ngoại giao, hay thương mại, đầu tư mà cần mở rộng trên mọi khu vực, trong đó có giáo dục - đào tạo – khoa học – công nghệ. Cần phải huy động mọi nguồn lực của nhà nước, của các doanh nghiệp, của cá nhân… đưa cán bộ, nhân viên doanh nghiệp đi học tập, nghiên cứu và lao động tại Nhật Bản. Có như vậy, họ mới được nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn và quan trọng hơn là họ sẽ am hiểu về đất nước con người Nhật Bản, từ đó sẽ có thuận lợi trong việc mời gọi TNCs Nhật Bản đầu tư.
Bên cạnh việc thu hút đầu tư của TNCs Nhật Bản nhiều hơn nữa, phải chú trọng tới việc khắc phục những tác động tiêu cực tới nền kinh tế các nước trong khu vực như tình trạng chuyển giao công nghệ còn hạn chế kéo theo sự ô nhiễm môi trường… Để giảm thiểu những hạn chế này phải chủ động:
- Tìm hiểu và nghiên cứu kỹ lưỡng các công nghệ liên quan đến lĩnh vực sản xuất, chọn lựa những công nghệ phù hợp. Tránh sự phụ thuộc tuyệt đối vào công nghệ nhập khẩu, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ nhằm làm chủ công nghệ và tạo sự linh động trong việc sử dụng các công nghệ nhập khẩu, cũng như đủ khả năng tự cải tiến, nâng cấp các công nghệ này để phù hợp với thực tiễn sản xuất.
- Không ngừng tìm tòi các ý tưởng kinh doanh mới, tăng cường đầu tư nhằm xoay vòng vốn hiệu quả, các sản phẩm có tính cạnh tranh cao, mà các mảng thị trường tiềm năng. Các biện pháp này có tác động kích thích sự sáng