Trên cơ sở các tài liệu đã được xử lý, tổng hợp và vận dụng các phương pháp phân tích thống kê để đánh giá thực trạng quản lý vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế; phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế.
Phương pháp đồ thị và biểu đồ để phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học về các nội dung nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng biểu, sơ đồ, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An thời gian tới.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CẤP TỈNH
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 1
- Chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 2
- Nội Dung Chính Sách Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Các Khu Công Nghiệp Trên Địa Bàn Cấp Tỉnh
- Sự Ổn Định Của Kinh Tế Chính Trị Và Mối Quan Hệ Hợp Tác Với Các Đối Tác
- Kinh Nghiệm Chính Sách Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Các Khu Công Nghiệp Của Tỉnh Hà
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
1.1. Một số khái niệm liên quan đến chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp và khu công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh
1.1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Trên thế giới loại hình KCN đã có một quá trình lịch sử phát triển hơn 100 năm nay, bắt đầu từ những nước nền công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ cho đến những con rồng Châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,... và hiện nay vẫn đang được các quốc gia học tập và kế thừa kinh nghiệm để tiến hành công nghiệp hóa. Tùy điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau và có những tên gọi khác nhau nhưng chúng đều mang tính chất và đặc trung của KCN. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển KCN, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về KCN .
- Định nghĩa 1: KCN là khu vực lãnh thổ rộng lớn, có ranh giới địa lý xác định, trong đó chủ yếu là phát triển các hoạt động sản xuất công và có đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ đa dạng; có dân cư sinh sống trong khu vực. Ngoài chức năng quản lý kinh tế, bộ máy quản lý các khu này còn có chức năng quản lý hành chính, quản lý lãnh thổ. KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc biệt như các công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2: KCN là các doanh nghiệp tập trung SXKD, không có dân cư sinh sống và được tổ chức hoạt động theo cơ chế ưu đãi cao hơn so với các khu vực lãnh thổ khác, được Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập và có thể có các doanh nghiệp chế xuất hàng công nghiệp.
Theo Luật Đầu tư 2014: “Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp”.
Trong giai đoạn toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức, quan niệm về KCN được mở rộng. Các giao dịch kinh tế không phải chỉ điều chỉnh bằng các quy định pháp lý trong nước mà còn bằng cả các quy định pháp lý quốc tế đặc biệt là những nguyên tắc của WTO. WTO cho phép thành lập các KCN và khu chế xuất với những ưu đãi không được trái với các nguyên tắc điều chỉnh của WTO.
Qua các khái niệm được quy định trong luật và từ thực tế hình thành các KCN trong những năm trước đây ta có thể hiểu: KCN là một vùng lãnh thổ xác định, được phát triển có hệ thống, theo một kế hoạch tổng thể, nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp với hệ thống kết cấu hạ tầng, tiện ích công cộng và các dịch vụ hỗ trợ phát triển ở mức độ khác nhau, được hưởng chính sách và cơ chế quản lý thích hợp tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cũng như mức độ hội nhập của quốc gia đó.
1.1.1.2. Khái niệm khu công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế nêu rõ:
- Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này. Khu công nghiệp gồm nhiều loại hình khác nhau, bao gồm: Khu chế xuất, khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp sinh thái (sau đây gọi chung là Khu công nghiệp, trừ trường hợp có quy định riêng đối với từng loại hình).
+ Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị định này. Khu chế xuất được ngăn cách với khu vực bên ngoài theo các quy định áp dụng đối với khu phi thuế quan quy định tại pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
+ Khu công nghiệp hỗ trợ là khu công nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, thực hiện dịch vụ cho sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Tỷ lệ diện tích đất cho các dự án đầu tư vào ngành nghề công nghiệp hỗ trợ thuê, thuê lại tối thiểu đạt 60% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của khu công nghiệp;
+ Khu công nghiệp sinh thái là khu công nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên, có sự liên kết, hợp tác trong sản xuất để thực hiện hoạt động cộng sinh công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, môi trường, xã hội của các doanh nghiệp.
- Khu kinh tế là khu vực có ranh giới địa lý xác định, gồm nhiều khu chức năng, được thành lập để thực hiện các mục tiêu thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 của Quốc hội quy định:
- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
- Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Như vậy, khu công nghiệp cấp tỉnh là một thuật ngữ để chỉ khu công nghiệp thuộc địa bàn tỉnh chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ và được quản lý bởi UBND tỉnh thông qua Ban quản lý dự án khu kinh tế cấp tỉnh. Trong đó:
Ban quản lý các KCN tỉnh, là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với các KCN trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật có liên quan; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ hành chính công và dịch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong các KCN.
Ban Quản lý do Thủ tướng Chính phủ quyết thành lập và chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế, chương trình kế hoạch công tác và kinh phí hoạt động của UBND tỉnh, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của các Bộ, ngành quản lý về ngành, lĩnh vực có liên quan; có trách nhiệm phối hợp chặc chẽ với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh trong công tác quản lý các KCN.
Ban Quản lý có tư cách pháp nhân; tài khoản và con dấu mang hình quốc huy; kinh phí quản lý hành chính nhà nước, kinh phí hoạt động sự nghiệp và vốn đầu tư phát triển do ngân sách nhà nước cấp theo kế hoạch hàng năm.
1.1.2. Khái niệm vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
a. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định Luật đầu tư tại Việt Nam và các quy định của pháp luật có liên quan.
Thuật ngữ đầu tư (Investment) có thể hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sở vật chất, về trình độ,…) cho người đầu tư trong tương lai.
Nhà kinh tế học người Anh John M.Keynes cho rằng đầu tư là hoạt động mua sắm tài sản cố định tiến hành sản xuất, ông chủ yếu tập trung vào khái niệm đầu tư tạo thêm tài sản vật chất mới (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng) để thu về một khoảng lợi nhuận tương lai: “khi doanh nhân mua một tài sản tư bản hay một khoản đầu tư, là anh ta mua quyền để có thu hoạch tương lai. Đó là chênh lệch giữa số tiền bán hàng với phí tổn để cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó”. Quan niệm của ông đã nói lên kết quả của đầu tư về hình thái vật chất là tăng thêm tài sản cố định, tạo ra tài sản mới về mặt giá trị, kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra song chưa phản ảnh kết quả đầu tư dùng vốn để đem lại vốn nhiều hơn.
Khi đề cập đến khía cạnh rủi ro bất trắc, P.Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ quan niệm rằng “Đầu tư là đánh bạc với tương lai”, hay khi đề cập đến vai trò của tiết kiệm, từ bỏ tiêu dùng hiện tại với niềm tin kỳ vọng thu nhập do đầu tư mang lại sẽ cao hơn chi phí của đầu tư, các tác giả “Kinh tế học của sự phát triển” lại cho rằng “đầu tư là một sự hi sinh tất cả các nguồn lực của cải ngày hôm nay để hi vọng đạt được những lợi ích lớn hơn trong tương lai”.
Tuy nhiên xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Các hoạt động như gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở hữu cổ phần và hàng hóa từ người này sang người khác, do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu lớn hơn số tiền mà bỏ ra tùy thuộc vào lãi suất tiết kiệm, lợi tức cổ phần hoặc giá cả.
Theo quan điểm tái sản xuất mở rộng, “đầu tư là quá trình chuyển hóa vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình sản xuất”.
Như vậy đứng trên những giác độ khác nhau, có những khái niệm khác nhau về đầu tư. Trong luận văn này, có thể hiểu: Đầu tư là quá trình bỏ vốn (tiền, nguyên liệu, nhân lực, công nghệ,…) vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
b. Khái niệm vốn đầu tư
Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kinh doanh, bằng phát minh sáng chế…) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được mục tiêu đã dự định.
Đối với tất cả quốc gia, vốn là yếu tố không thể thiếu được để phát triển kinh tế. Chủ thể kinh doanh nào cũng cần phải có lượng vốn đầu tư ban đầu để chi phí cho việc thuê đất đai, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị… Vốn đầu tư dùng để đổi mới công nghệ, xây dựng và nâng cấp nhà xưởng… nhằm mở rộng quy mô, phát triển sản xuất.
Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của một đơn vị kinh tế hay một quốc gia. Các loại vốn đang trong quá trình đầu tư xây dựng.... được gọi là vốn đầu tư. Vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động.
Theo Luật Đầu tư (2014) thì khái niệm vốn đầu tư được hiểu là: “Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp”.
1.1.2.2. Khái niệm thu hút vốn đầu tư
Thu hút vốn đầu tư là hoạt động nhằm khai thác, huy động các nguồn vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Thu hút vốn đầu tư bao gồm tổng hợp các cơ chế, chính sách, thông qua các điều kiện về hành lang pháp lý, kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội, các nguồn tài nguyên, môi trường… để thu hút các nhà đầu tư đầu tư vốn, khoa học công nghệ… để sản xuất, kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu nhất định.
Vai trò thu hút vốn đầu tư rất quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương… qua nguồn vốn đầu tư vào mỗi quốc gia, địa phương ta có thể thấy được trình độ phát triển kinh tế -xã hội. Biểu hiện sự phát triển bền vững, sự hấp dẫn, môi trường đầu tư hoàn hảo, các chính sách hỗ trợ đầu tư, thuận lợi về vị trí địa lý, lực lượng lao động dồi dào cả về số lượng và chất lượng… chính điều kiện này các nhà đầu tư mới cân nhắc triển khai các dự án.
Từ những phân tích trên có thể hiểu, thu hút vốn đầu tư là hoạt động khai thác các nguồn lực tài chính nhằm tài trợ vốn cho các dự án đầu tư phát triển của các chủ thể kinh tế. Như vậy, thu hút vốn đầu tư ở đây được hiểu là thu hút vốn đầu tư trực tiếp và kết quả cuối cùng cũng phải hình thành cơ sở sản xuất xã hội và dịch vụ trong nền kinh tế.
1.1.3. Khái niệm chính sách và chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh
1.1.3.1. Khái niệm chính sách
Chính sách là một loạt quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó lớn hơn các quyết định tác nghiệp. Đó là các quyết định chung, hướng dẫn đối tượng quản lý thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính sách tồn tại ở các cấp của hệ thống quản lý bao gồm: Chính sách quốc gia, chính sách ngành, chính sách địa phương, vùng lãnh thổ, công ty và bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị xã hội. Trong kinh tế có các chính sách cơ bản sau: Chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập, ngân sách, tiết kiệm... Chính sách là những tài liệu chỉ dẫn, nó có phạm vi co dãn nhất định, việc đề ra chính sách phù hợp sẽ khơi dậy nhiều tiềm năng mới nhờ nó mà nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì đối tượng quản lý luôn vận động và biến đổi qua từng thời kỳ nên một chính sách cứng nhắc sẽ mất đi tính hợp lý của nó theo thời gian.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”.[19]
Theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”. [7]
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”
Như vậy, phân tích khái niệm “chính sách” thì thấy:
- Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;
- Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế;
- Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.
1.1.3.2. Khái niệm chính sách thu hút vốn đầu tư và chính sách thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
a. Khái niệm chính sách thu hút vốn đầu tư
Tiếp cận theo hệ thống, chính sách là một hệ thống gồm 2 nhóm lớn: nhóm thứ nhất là các chính sách kinh tế, chủ yếu gồm có các chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tài
chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách kinh tế đối ngoại. Nhóm thứ hai là các chính sách xã hội, chủ yếu bao gồm có chính sách dân số và lao động, chính sách giáo dục, chính sách y tế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách văn hóa, chính sách việc làm.
Có thể thấy rằng nhóm các chính sách kinh tế trong đó có chính sách kinh tế mà bao hàm trong nó là chính sách thu hút vốn đầu tư, có liên kết chặt chẽ với các chính sách khác thành một hệ thống, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện mục tiêu chung của chính sách kinh tế xã hội. Theo dòng chảy của vốn đầu tư, chính sách thu hút vốn đầu tư được phân tách theo từng ngành, từng lĩnh vực và từng khu vực. Theo tính chất, chính sách thu hút vốn đầu tư có thể được chia thành chính sách thu hút vốn đầu tư tự do và thu hút vốn đầu tư hạn chế. Theo nội dung, chính sách đầu tư có thể được chia thành: chính sách mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách hỗ trợ đầu tư.
Để điều tiết nền kinh tế ở tầm kinh tế vĩ mô, Nhà nước vừa có chức năng hoạch định, thực thi các chính sách vừa trực tiếp là một thành viên của nền kinh tế đa thành phần. Với chức năng hoạch định, nhà nước quyết định chủ trương, định hướng và quy hoạch các chương trình kinh tế, xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước. Với chức năng điều hành, Nhà nước tạo lập môi trường đầu tư, ban hành pháp luật đưa ra cơ chế, chính sách khuyến khích và các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô, hướng dẫn giám sát và kiểm tra việc thực thi pháp luật.
Nếu xét trên phương diện cụ thể, trong quản lý và điều hành kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư, có thể khái quát: “Chính sách thu hút vốn đầu tư là các quyết định của Nhà nước, của các cấp nhằm thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản. Chính sách thu hút vốn đầu tư phản ánh các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp công cụ, các nguyên tắc và phương thức hành động của Nhà nước trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng của Nhà nước.”
Để thực hiện mục tiêu thu hút vốn đầu tư nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, các nước đang phát triển đã hoạch định những chính sách riêng phù hợp với những đặc thù của mình. Tuy có nhiều nét riêng biệt, song chính sách thu hút vốn đầu tư đều là một dạng chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế, được ban hành nhằm tăng cường thu hút vốn để tận dụng hết các nguồn lực trong nước như tài nguyên, đất đai, lao động, phục vụ cho việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã định. Chính sách thu hút vốn