Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Theo Luật Hn&gđ

4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan [60, Điều 37].

Do vậy, trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung không cần căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng. Trong những trường hợp vì lý do chính đáng và hoàn cảnh riêng của từng gia đình mà có thể vợ hoặc chồng không trực tiếp lao động tạo ra tài sản mà chỉ “lao động trong gia đình” như làm nội trợ, chăm sóc con… thì quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng với người kia. Điều đó có nghĩa là “lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” [54, Điều 95].

Theo khoản 3 Điều 219 BLDS năm 2005, khoản 1 Điều 24 Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 2 Điều 24 Luật HN&GĐ năm 2014 thì trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, phải có sự bàn bạc, thoả thuận của vợ chồng. Trong trường hợp vợ, chồng uỷ quyền cho nhau thì người được uỷ quyền có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung trong phạm vi được uỷ quyền. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng.

Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ bình đẳng của vợ, chồng đối với tài sản chung là nhằm bảo vệ khối tài sản chung, tránh những trường hợp một trong hai vợ chồng có hành vi phá tán tài sản chung, huỷ hoại tài sản chung hoặc tự mình thực hiện những giao dịch dân sự làm tổn thất khối tài sản chung, ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình và của người kia. Đồng thời, quy định này còn khẳng định quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ gia đình.

2.1.3. Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ

2.1.3.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Lần đầu tiên việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được đề cập tới là trong Luật HN&GĐ năm 1986, tại Điều 18 quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này” [51]. Tiếp đó, nội dung này được kế thừa trong Luật HN&GĐ năm 2000, khoản 1 Điều 29 quy định:

Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết [54]. Đến Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn tiếp tục quy định: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết [60, Điều 38].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

- Về điều kiện chia, Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014 quy định rõ hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986:

+ Điều kiện về nội dung:

Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam - 8

Thứ nhất, vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng: Xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, khi chia tài sản sẽ tạo điều kiện để hai vợ, chồng có tài sản riêng làm vốn kinh doanh, đồng thời cũng hạn chế tiêu cực có thể xảy ra trong kinh doanh.

Thứ hai, trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì họ có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình.

Thứ ba, trường hợp có lý do chính đáng khác: Quy định này cũng xuất phát từ lợi ích của gia đình, lợi ích của vợ, chồng hoặc của người thứ ba. Trên thực tế không có một chuẩn mực nào để đánh giá sự chính đáng trong lý do của việc chia tài sản chung, vì vậy tuỳ từng trường hợp mà đánh giá một lý do có được coi là chính đáng hay không. Ví dụ, vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng và có yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đây được coi là một lý do chính đáng vì thể hiện sự quan tâm tới suy nghĩ của con cái.

Theo khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 thì việc chia tài sản chung của vợ chồng không được nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung một điều mới quy định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu, theo đó:

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;

b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;

c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Toà án tuyên bố phá sản;

d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;

đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;

e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan [60, Điều 42].

+ Điều kiện về hình thức: Chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản và có thể được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật [60, Điều 38].

- Về nguyên tắc chia: Pháp luật hiện hành quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trước hết do vợ chồng thoả thuận. Nếu vợ chồng không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không quy định thế nào là không thoả thuận được và không quy định nguyên tắc chia khi chia tài sản chung tại Toà án. Trước đây, theo Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986, trong các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại đều phải do Toà án quyết định và nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp này giống với trường hợp vợ chồng ly hôn. Tại khoản 3 Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014 đã chỉ dẫn về nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giống với Luật HN&GĐ năm 1986, đó là áp dụng nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Như vậy, qua hơn 10 năm thực hiện mặc dù đã có sự sửa đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới nhưng Luật HN&GĐ năm 2000 cũng có những điểm không phù hợp với thực tế, thiếu căn cứ khi giải quyết vấn đề tài sản, Luật HN&GĐ năm 2014 đã ghi nhận lại nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thừa nhận ưu điểm của Luật cũ, giúp Toà án giải quyết nhanh chóng vấn đề tài sản của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại.

- Về hậu quả pháp lý:

+ Quan hệ nhân thân: Sau khi chia tài sản chung, về mặt pháp lý, quan hệ nhân thân của vợ chồng không có gì thay đổi. Vợ, chồng vẫn có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ về nhân thân đối với nhau và với gia đình như nghĩa vụ chung thuỷ, thương yêu, chăm sóc nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm ….

+ Quan hệ tài sản: Tài sản chung đã chia trở thành tài sản riêng của vợ, chồng. Phần tài sản chung còn lại không chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Tuy nhi ên, theo khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác” [10, Điều 8, Khoản 2].

Sau khi đã chia tài sản chung, pháp luật còn quy định quyền của vợ chồng được thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung quy định về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:

1. Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

2. Thoả thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba [60, Điều 40].

Để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung khoản 2 Điều 40. Mặc dù quan hệ hôn nhân vẫn tồn tại nhưng nếu vợ chồng đã chia tài sản chung thì việc chia tài sản đó không làm ảnh hưởng đến giao dịch giữa vợ chồng với người thứ ba. Quy định này là phù hợp với thực tế, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các quan hệ kinh doanh thương mại ngày càng gia tăng, vợ chồng dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh ngày càng nhiều, việc chia

tài sản chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của người thứ ba khi xác lập thực hiện giao dịch với vợ chồng. Vì vậy đây là cơ chế hợp lý để các bên thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình mà không làm đảo lộn trật tự trong kinh doanh.

2.1.3.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Việc chia tài sản chung của vợ chồng được quy định tại các Điều 95, 96, 97, 98 Luật HN&GĐ năm 2000 và được sửa đổi, bổ sung tại các Điều 59, 61, 62 Luật HN&GĐ năm 2014.

- Điều kiện chia: Khi ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng được đặt ra như một tất yếu vì ly hôn làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng, chấm dứt cơ sở hình thành, phát triển của khối tài sản chung.

- Nguyên tắc chia: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trước hết là dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000: “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết” [54]. Theo khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 2, 3 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014, khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi. Tuy nhiên, để đảm bảo thanh toán tài sản chung được công bằng, hợp lý Toà án cần xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung, hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản… để quyết định chia tài sản chung bằng hiện vật hay giá trị, hoặc chia loại tài sản nào cho phù hợp. Khi chia quyền sử dụng đất, nhà ở phải đồng thời kết hợp với các nguyên tắc đặc thù khác để phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP (các Điều từ 23 đến 29) đã quy định khá cụ thể về chia tài sản là nhà ở hoặc quyền sử dụng đất đó thuộc tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng; hoặc thuộc khối tài sản của gia đình (bên nhà chồng hoặc bên nhà vợ)…. Tuỳ từng vụ việc cụ thể, theo quy định của pháp luật mà Toà án

quyết định việc chia tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các đương sự, nhất là quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân. Mục 12 - Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP đã hướng dẫn: Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải theo đúng các nguyên tắc được quy định tại Điều 95. Ngoài ra, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các quy định tại Điều 96, Điều 97, Điều 98 tương ứng. Tuy nhiên, cần chú ý: Việc xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử. Để đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ, chồng trong quan hệ tài sản, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung điểm mới nổi bật: “Việc chia tài sản chung có tính đến yếu tố lỗi của mỗi bên trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” [60, Điều 59].

- Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: Chế độ tài sản chung của vợ chồng hoàn toàn chấm dứt. Tài sản chung của vợ chồng sau khi chia cho vợ, chồng sẽ trở thành tài sản riêng của mỗi người và chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về sở hữu riêng.

2.1.3.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết

- Điều kiện chia: Khi vợ hoặc chồng chết, tài sản chung của vợ chồng có thể được chia theo yêu cầu chia di sản của người thừa kế hoặc yêu cầu của chính người chồng hoặc vợ còn sống. Nếu việc chia di sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên chồng hoặc vợ còn sống và gia đình thì việc chia di sản có thể được tạm hoãn với thời hạn tối đa là ba năm (Điều 31 Luật HN&GĐ năm 2000, Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, điểm a mục 4 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, Điều 66 Luật HN&GĐ năm 2014).

Ví dụ: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 25m2. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A bị chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con. Chị

B có quyền yêu cầu Toà án chưa cho chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A trong thời hạn 3 năm.

- Nguyên tắc chia: Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết. Trước đây, theo quy định tại Điều 17 Luật HN&GĐ năm 1986: “Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế” [51]. Đây là một quy định hợp lý, bởi quan hệ tài sản của vợ chồng là quan hệ sở hữu chung hợp nhất; mọi tài sản do vợ chồng lao động, sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung đều là tài sản chung của vợ chồng. Vợ chồng có quyền sở hữu ngang nhau đối với khối tài sản chung mà không phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên vào việc xây dựng và phát triển vào khối tài sản chung nhiều hay ít. Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung quy định về nguyên tắc chia tài sản chung, tạo cơ sở pháp lý khi giải quyết việc phân chia tài sản, theo đó: “Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế” [60, Điều 66].

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 18/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí