Quyền Yêu Cầu Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân

Chương 2‌

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH


2.1 Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một trong những quy định thể hiện sự bình đẳng giữa vợ chồng về tài sản. Sự thừa nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã cho phép vợ chồng có quyền sở hữu tài sản riêng của mỗi người, từ đó nhằm mục đích củng cố quan hệ vợ chồng đồng thời tôn trọng, bảo đảm tự do ý chí cá nhân trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản chung.

Theo quy định tại Điều 224 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản chung được chia theo yêu cầu của chủ sở hữu chung hoặc theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu một trong các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ với mình mà người đó không có tài sản riêng [32]. Việc yêu cầu được chia tài sản chung của chủ sở hữu chung thì không cần có lí do chính đáng. Đối với yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một trường hợp của chia tài sản thuộc sở hữu chung. Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:

Khi hôn nhân còn tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải được lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết” [31].

Với quy định trên, tài sản chung chỉ được chia khi có lí do chính đáng và theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc khi vợ chồng không thỏa thuận được thì

mới yêu cầu tòa án chia. Như vậy, người yêu cầu chia tài sản chung chỉ có thể là vợ hoặc chồng hoặc cả hai khi có lí do chính đáng, ngoài ra không có chủ thể nào khác có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, kể cả người có quyền lợi liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng (chẳng hạn như chủ nợ của bên vợ hoặc chồng). Quy định này tương tự quy định của BLDS Pháp khi chỉ cho phép vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu tòa án tách riêng tài sản chung. Điều 1447 BLDS Pháp quy định chủ nợ không có quyền yêu cầu mà chỉ có quyền kháng cáo trong trường hợp tòa án quyết định việc chia tách tài sản có hại cho quyền lợi của họ.

Chúng tôi nhận thấy, việc không thừa nhận quyền khởi kiện của người thứ ba trong việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hiện hành là hoàn toàn phù hợp theo quy định của pháp luật. Điều này được lý giải bởi yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng, xuất phát trên cơ sở quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi một bên vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó cần được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không được sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Một trường hợp được đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào? [18, tr.27]. Thực tế đã cho thấy, trường hợp như trên xảy ra rất nhiều và người thứ ba hầu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

như không có cơ hội khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình. Có thể thấy, đây là một hạn chế thiếu sót của Luật HN&GĐ hiện hành và cần thiết phải bổ sung theo hướng đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho cả hai bên. Tham chiếu BLDS Pháp cho thấy quyền yêu cầu tách riêng tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là quyền của vợ, chồng, chủ nợ của riêng vợ hoặc chồng không có quyền yêu cầu tách riêng tài sản của người vợ chồng mắc nợ. Tuy nhiên BLDS Pháp có quy định nếu trong trường hợp việc chia tách tài sản riêng đã được Tòa án quyết định có hại cho quyền lợi của họ, thì họ có quyền kháng án với tư cách người thứ ba kháng án theo những điều kiện do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa quy định trường hợp này. Do đó pháp luật cần dự liệu quyền yêu cầu của người thứ ba cũng như quyền kháng án trong trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

2.2 Các lý do chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam - 6

Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hiện hành chỉ phát sinh khi có những điều kiện sau:

+ Có yêu cầu của một bên vợ hoặc một bên chồng hoặc yêu cầu của cả hai vợ chồng;

+ Việc chia tài sản chung được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân;

+ Có lý do nhất định.

Trong ba điều kiện trên, việc xem xét các lý do để dẫn tới việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là quan trọng, bởi việc chia tài sản chung sẽ ảnh hưởng đến khối tài sản chung hợp nhất, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, quyền và lợi ích của tất cả các thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, chỉ trong những trường hợp cần thiết thì việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mới được tiến hành. Pháp luật HN&GĐ hiện hành quy định vợ chồng có thể yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo những lý do sau:

- Đầu tư kinh doanh riêng

Phát triển kinh tế theo định hướng thị trường với xu thế hội nhập toàn cầu là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Để theo kịp với tiến trình phát triển kinh tế với các nước trên thế giới, Nhà nước ta đã ban hành những chính sách khuyến khích công dân tự do kinh doanh phát triển kinh tế. Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được ghi nhận ở văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, quyền tự do còn được cụ thể hóa và được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật chuyên ngành khác như BLDS, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp,… Do vậy, theo quy định này mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp mà không phân biệt giới tính nên vị trí và vai trò của phụ nữ hiện nay đã được nâng cao kể cả trong hoạt động kinh doanh.

Đầu tư kinh doanh trong xã hội hiện nay đã giúp cho nhiều cá nhân và gia đình có cơ hội phát triển kinh tế gia đình. Tuy nhiên, kinh doanh là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro cao bởi sự tác động của rất nhiều yếu tố nhất là môi trường cạnh tranh khốc liệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới. Ngoài ra, khi vợ chồng tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh thì sẽ bị ràng buộc với nhau bởi quan hệ tài sản, quyết định của vợ chồng không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân người đó mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của tất cả các thành viên trong gia đình. Luật HN&GĐ năm 2000 đã kế thừa và phát triển quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này là điểm tiến bộ so với Luật HN&GĐ năm 1959 và là quy định rất cần thiết. Thứ nhất, đứng ở góc độ của nhà đầu tư, vợ hoặc chồng rất cần vốn để đầu tư kinh doanh; nhưng toàn bộ tài sản trong thời kỳ hôn nhân phần lớn là tài sản chung của vợ chồng, khi định đoạt tài sản chung phải có ý kiến của cả hai

người. Vì vậy chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ tạo cơ hội cho vợ chồng có tài sản riêng để có thể “chớp thời cơ” trong đầu tư kinh doanh và đảm bảo lợi ích cho các thành viên trong gia đình. Thứ hai, ở góc độ gia đình, việc quy định như vậy sẽ bảo đảm được sự ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi tác động tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra. Thứ ba, ở góc độ bình đẳng giới, việc quy định vợ chồng đều có quyền yêu cầu chia vì mục đích kinh doanh đã tạo ra sự bình đẳng giữa vợ và chồng đối với tài sản chung.

Liên quan đến việc chia tài sản chung khi vợ chồng đầu tư kinh doanh, pháp luật của các nước trên thế giới cũng có quy định những biện pháp khác nhau để hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động kinh doanh tới gia đình. Chẳng hạn Điều 1491 BLDS và thương mại Thái Lan quy định “nếu người vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá sản thì “Sin Somros” được chia theo quy định của pháp luật để từ ngày có tuyên bố” [2]. Mặc dù, theo pháp luật Thái Lan việc chia tài sản chung của vợ chồng chỉ vào thời điểm vợ chồng bị tuyên bố phá sản, tức là khi đã phát sinh hậu quả. Tuy nhiên, quy định này còn có điểm chưa hợp lý, bởi lẽ tài sản chung được đem đầu tư kinh doanh lợi tức thu được từ hoạt động đó được nhập vào khối tài sản chung và vợ chồng cùng hưởng thì không có lý do gì khi phát sinh hậu quả, tài sản lại được đem chia để một bên trả nợ. Như vậy, sẽ dễ dàng dẫn đến lợi dụng chia tài sản chung để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

- Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng

Khi tham gia vào các giao dịch dân sự, bên cạnh việc hưởng các quyền dân sự thì các chủ thể cũng phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự. Điều 280 BLDS năm 2005 quy định:

Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả

tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác [32].

Theo đó, nghĩa vụ dân sự riêng của vợ chồng có thể xác định những nghĩa vụ như sau:

+ Các khoản vay nợ mà vợ, chồng vay không vì nhu cầu hoặc lợi ích gia đình trong thời kỳ hôn nhân.

+ Nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình, chi phí cho người mà vợ, chồng là người giám hộ của người đó theo quy định của pháp luật dân sự và luật HN&GĐ.

+ Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện đối với các thành viên trong gia đình theo quy định của HN&GĐ năm 2000.

+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng.

+ Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng khi một bên phải thi hành bản án hoặc quyết định của toà án.

+ Nghĩa vụ về tài sản liên quan đến các giao dịch dân sự mà vợ hoặc chồng được hưởng lợi riêng.

+ Thực hiện các nghĩa vụ về tài sản khác mà mình được hưởng lợi theo quy định của pháp luật như nghĩa vụ về tài sản do nhận thừa kế phát sinh từ quyền nhận thừa kế…

Về nguyên tắc khi vợ hoặc chồng có nghĩa vụ dân sự riêng phải thực hiện thì phải dùng tài sản riêng của mình để thanh toán các nghĩa vụ riêng đó. Tài sản chung của vợ chồng được hình thành và phát triển chỉ nhằm mục đích bảo đảm cho nhu cầu chung của các thành viên trong gia đình hoặc những nghĩa vụ chung của vợ chồng, nên nếu tài sản riêng của người đó không có hoặc không đủ và vợ chồng không thể thỏa thuận dùng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng thì vợ chồng có quyền yêu cầu

chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc yêu cầu chia tài sản này nhằm mục đích lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng để thanh toán các nghĩa vụ dân sự riêng đó. Đây đồng thời là cơ sở phân định rõ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản trong gia đình.

- Có lý do chính đáng khác

Thực tế cho thấy cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều lý do khác nhau cần thiết để vợ, chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứ không chỉ có hai lý do nêu trên. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của vợ chồng, pháp luật HN&GĐ không tiên lượng được tất cả các lý do để chia tài sản, do đó đã dự liệu trường hợp vợ chồng “có lý do chính đáng khác” thì có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này đã tạo ra sự linh hoạt trong việc giải quyết các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Dù với lý do gì thì việc vợ chồng chia tài sản phải thật cần thiết vì nó có ảnh hưởng đến tài sản chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của các thành viên trong gia đình. Nếu vợ, chồng thấy việc chia tài sản là cần thiết, họ có lý do chính đáng và hợp pháp để chia thì pháp luật nên thừa nhận quyền chia tài sản chung của họ.

Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi đưa ra lý do chia tài sản đều được pháp luật chấp nhận. Lý do vợ, chồng đưa ra phải là lý do chính đáng bởi vì sẽ có nhiều cặp vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc tẩu tán tài sản. Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 có quy định:

Trong khi hôn nhân còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản chung của vợ chồng nếu có lý do chính đáng (như vợ chồng tính tình không hợp

nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn [40].

Với nội dung của quy định trên cho thấy sự phù hợp với phong tục tập quán, lối sống của người phương Đông, thể hiện đúng bản sắc của dân tộc ta, luôn luôn vì sự yên ấm, ổn định của gia đình, vì lợi ích của con cái nên không muốn ly hôn mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung. Luật HN&GĐ năm 2000 kế thừa và phát triển trên cơ sở của Luật HN&GĐ năm 1986 lại không quy định cụ thể thế nào là “lý do chính đáng khác”, do vậy không có cơ sở để xem xét lý do chia tài sản chung mà vợ chồng đưa ra có chính đáng hay không, dẫn đến việc áp dụng pháp luật của tòa án có thể tùy tiện. Cùng một lý do mà vợ chồng đưa ra nhưng có tòa án quyết định chia tài sản chung của vợ chồng nhưng có tòa án không chấp nhận lý do này.

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân luôn mang lại những hậu quả pháp lý nhất định, do vậy không chỉ pháp luật Việt Nam mà pháp luật của các nước khác trên thế giới đều quy định những căn cứ chặt chẽ để vợ chồng làm căn cứ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. BLDS và thương mại Thái Lan quy định rất nhiều trường hợp là căn cứ để vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, như vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá sản; khi vợ hoặc chồng bị tuyên là không có năng lực hành vi dân sự và người kia không thích hợp để chăm sóc; nếu tài sản chung do người kia quản lý ở trong tình trạng có thể dẫn đến phá huỷ…Có thể thấy căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của BLDS và thương mại Thái Lan rất rộng, nó không chỉ gồm những căn cứ về mặt tài sản mà gồm cả những căn cứ về mặt nhân thân nữa. Để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, Luật HN&GĐ năm 2000 cần bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi đưa ra lý do chia tài sản đều

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí