vấn đề thực hiện và áp dụng pháp luật, trong đó có pháp luật về HN&GĐ. Việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959, một số điều không phù hợp. Việc ban hành Luật HN&GĐ mới là một tất yếu khách quan. Trước thực tế đó, năm 1986 Quốc hội khoá VII kỳ họp thứ 12 đã thông qua Luật HN&GĐ mới, trong đó có các điều quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không ghi nhận chế độ tài sản ước định mà chỉ quy định chế độ cộng đồng tài sản pháp định áp dụng cho các cặp vợ chồng. Chế độ cộng đồng tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 là chế độ cộng đồng tạo sản, với phạm vi thành phần khối tài sản chung của vợ chồng hẹp hơn rất nhiều so với chế độ cộng đồng toàn sản mà Luật HN&GĐ năm 1959 áp dụng. Điều 14 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung” [49].
Bên cạnh khối tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đã ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng quy định: “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng” [51, Điều 16].
Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung, quy định rõ mục đích sử dụng tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo những nhu cầu chung của gia đình: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, cho, đổi, vay mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của hai vợ chồng” [51, Điều 15].
Về chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài hai trường hợp như Luật HN&GĐ năm 1959: Chia khi một bên vợ, chồng chết trước (Điều 17) và khi
vợ, chồng ly hôn (Điều 42), Luật HN&GĐ năm 1986 còn quy định thêm chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại (Điều 18). Đây là quy định mới, xuất phát từ thực tiễn của đời sống xã hội và với mục đích bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng cũng như của những người có lợi ích liên quan (người thứ ba) đến tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra, trong Luật HN&GĐ năm 1986 còn quy định “nguyên tắc chia đôi tài sản chung” của vợ chồng [51, Điều 17, 18, 42].
Luật HN&GĐ năm 1986 đã dự liệu tương đối đầy đủ các quan hệ HN&GĐ cần được điều chỉnh, tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện, theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội, việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 đã bộc lộ những hạn chế nhất định: các quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 vẫn rất cô đọng, khái quát, mang tính định khung [78, tr.71]. Vì vậy, quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Trước thực tế đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã ra đời với những quy định mới phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Giống với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta cũng không dự liệu về chế độ tài sản ước định giữa vợ chồng. Chế độ cộng đồng tài sản pháp định mà Luật HN&GĐ năm 2000 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản, áp dụng cho các cặp vợ chồng. Cũng như Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về phạm vi thành phần khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp chia tài sản chung và hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Khác với Luật HN&GĐ năm 1959 và năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 có quy định về việc đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng; các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng được cụ thể hơn, khắc
phục một số điểm hạn chế khi dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng góp phần điều chỉnh kịp thời những phát sinh trong đời sống hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng. Sự không minh bạch này gây hậu quả không an toàn cho các giao dịch dân sự liên quan đến người thứ ba. Luật chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ hiện hành chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản pháp định có một số hạn chế, như: Quy định của luật hiện hành không bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản. Về nguyên tắc, mỗi cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu và theo ý chí của mình, miễn sao không xâm phạm lợi ích của người khác, không trái với đạo đức xã hội; Việc chỉ áp dụng một chế độ hôn sản pháp định cho tất cả các trường hợp không đáp ứng được nhu cầu của một số cặp vợ chồng. Thực tế, có những trường hợp mà hai người kết hôn muốn tất cả tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn cũng như trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung; ngược lại, có những trường hợp mà người kết hôn có nhiều tài sản riêng có nguồn gốc từ gia đình mình hoặc vì lý do kinh doanh riêng nên muốn thực hiện một chế độ tách riêng tài sản và thoả thuận với nhau về việc đóng góp cho đời sống chung của gia đình. Xuất phát từ những lý do đó, Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành đã giải quyết được một số vấn đề bất cập của Luật HN&GĐ năm 2000 và bổ sung nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Của Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng
- Khái Quát Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Lịch Sử
- Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Hn&gđ Của Nước Ta Từ Cách Mạng Tháng Tám (1945) Đến Nay
- Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Được Xác Lập Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Theo Luật Hn&gđ
- Tài Sản Riêng Của Vợ, Chồng Bao Gồm Tài Sản Mà Mỗi Bên Vợ, Chồng Có Từ Trước Khi Kết Hôn
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
1.4. CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Chế độ tài sản của vợ chồng luôn là nội dung quan trọng trong pháp luật HN&GĐ của các nước. Nhiều luật gia trên thế giới cho rằng vấn đề sở
hữu tài sản của vợ chồng luôn là một chế định chứa đựng tính phức tạp trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng gắn liền với điều kiện của mỗi nước, giữa các nước khác nhau thì chế độ tài sản của vợ chồng được quy định là khác nhau. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của xu thế hội nhập về kinh tế, sự hợp tác trong quan hệ chính trị, văn hoá, xã hội; cũng như ảnh hưởng của truyền thống và tư tưởng pháp lý, về cơ bản giữa các nước có các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tương đồng thì có những quan điểm chung về chế độ tài sản của vợ chồng.
Nhiều nhà làm luật các nước tư sản cho rằng, hôn nhân thực chất là một loại hợp đồng dân sự, hôn nhân chỉ khác với các loại hợp đồng dân sự thông thường khác ở tính chất “long trọng” trong thiết lập và chấm dứt. Bên cạnh đó, nhà làm luật ở một số nước thường đề cao quyền tự do cá nhân, quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ, chồng. Tự do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ, quan niệm này được thể hiện phổ biến là ở các nước phương Tây.
Ở Pháp, theo quy định của BLDS Pháp: “pháp luật không điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nếu giữa vợ chồng đã có thoả thuận riêng mà vợ chồng cho là phù hợp và không trái với thuần phong mĩ tục hoặc với các quy định sau đây” [45, Điều 1378]. Thực tế, nhà lập pháp của Pháp cũng đã đưa ra một hệ thống các chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản pháp định không áp dụng một cách đương nhiên, nó chỉ là một chế độ tuỳ nghi. Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thoả thuận một chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những thoả thuận về vấn đề này, chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng.
Ở Đức, Luật gia đình Đức phân biệt các quy định về tài sản hôn nhân do luật định và các quy định thoả thuận qua hợp đồng hôn nhân (hôn khế). Nguyên tắc tự do quy định qua hợp đồng cũng được áp dụng cho tài sản hôn nhân nên vợ chồng có thể tự thoả thuận các quan hệ về tài sản của họ trong hợp đồng hôn nhân hay thoả thuận áp dụng những quy định luật định nào.
Nếu không có hợp đồng hôn nhân thì quan hệ tài sản trong hôn nhân sẽ tuân theo các quy định của chế độ tài sản cộng đồng gia tăng (Điều 1361 BLDS). Ở chế độ này, tài sản của vợ hay chồng, kể cả tài sản có được sau khi kết hôn, vẫn là tài sản riêng của người ấy, mỗi người tự quản lý và chịu trách nhiệm về tài sản của mình, và chỉ cần ý kiến đồng thuận của người kia khi muốn chuyển nhượng toàn bộ tài sản của mình hay một đồ vật thuộc về đồ đạc trong nhà. Tài sản gia tăng của vợ chồng chỉ được chia khi cộng đồng gia tăng chấm dứt. Nếu chế độ cộng đồng gia tăng bị chấm dứt vì người vợ hay chồng chết thì sự chia tài sản gia tăng được thực hiện qua việc phần thừa kế của người sống được tăng thêm 1/4. Nếu chế độ cộng đồng gia tăng bị chấm dứt qua ly hôn thì người nào có phần tài sản gia tăng cao hơn, sẽ phải chia đôi phần nhiều hơn với người kia, để cho phần gia tăng tài sản của hai vợ chồng trong thời gian hôn nhân bằng nhau. Tài sản gia tăng là sự chênh lệch về giá trị (tức là phần gia tăng) của tài sản tính từ ngày kết hôn đến ngày đơn xin ly hôn đến Toà án gia đình. Những tài sản mà người vợ hay người chồng nhận được từ cha mẹ hay họ hàng của mỗi người như của hồi môn, thừa kế, quà tặng riêng… trong thời gian hôn nhân không bị coi là phần gia tăng của tài sản khi ly hôn.
Qua hợp đồng hôn nhân, vợ chồng có thể thoả thuận không theo chế độ tài sản cộng đồng gia tăng mà chọn chế độ tài sản sở hữu tài sản tách riêng hoặc chế độ tài sản sở hữu tài sản chung.
Ở chế độ tài sản sở hữu tài sản tách riêng (Điều 1414 BLDS) tài sản của vợ chồng, kể cả tài sản mà vợ chồng có được sau khi kết hôn qua lao
động, là tài sản riêng của người ấy. Mỗi người tự quản lý và chịu trách nhiệm về tài sản của mình, có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt độc lập không cần có ý kiến của người kia. Nếu người vợ hay người chồng lâm vào tình trạng phá sản thì chỉ có tài sản của người này trở thành khối tài sản để thanh toán nợ.
Ở chế độ tài sản sở hữu tài sản chung, tất cả tài sản của hai vợ chồng có từ trước ngày kết hôn và tài sản vợ chồng có được trong thời gian hôn nhân qua lao động, thừa kế… trở thành tài sản chung của hai vợ chồng mà không cần một nghi thức pháp lý nào. Cả hai vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt như nhau đối với tài sản chung, nhưng nếu người vợ hay người chồng bị phá sản thì toàn bộ tài sản chung sẽ bị đưa vào khối tài sản để thanh toán nợ. Chế độ tài sản sở hữu tài sản chung kết thúc qua ly hôn, hoặc qua cái chết của một người vợ hay chồng hoặc qua đơn xin kết thúc chế độ tài sản. Lúc đó tài sản sẽ chia đôi giữa vợ chồng sau khi thanh toán hết những nghĩa vụ chi trả. Trong trường hợp người vợ hay chồng chết thì tài sản sẽ chia đôi giữa người còn sống và các con sau khi thanh toán hết những nghĩa vụ chi trả [8].
Ở Châu Á, pháp luật Nhật Bản cũng có những quy định tương tự như một số nước phương Tây, chế độ tài sản của vợ chồng do chính họ lựa chọn, pháp luật chỉ quy định một chế độ tài sản cho họ khi vợ chồng không có hoặc không thoả thuận được một chế độ tài sản cho mình. Quan niệm này được thể hiện rõ trong quy định tại Điều 755 và Điều 756 BLDS Nhật Bản, Điều 1465 BLDS và Thương mại Thái Lan, Điều 1387 BLDS Cộng hoà Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965). BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu vợ hoặc chồng trước khi đăng ký kết hôn không ký một hợp đồng nào nhằm quy định khác đi tài sản của mình, thì quan hệ tài sản của họ được điều chỉnh bởi các quy định của tiểu mục II (tiểu mục quy định chế độ tài sản pháp định)” [7, Điều 756].
Như vậy, bên cạnh chế độ tài sản ước định, pháp luật HN&GĐ của một số nước (Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan) đều quy định chế độ tài sản theo quy định của pháp luật. Chế độ tài sản pháp định được quy định ở nhiều hình thức khác nhau, nhưng hình thức phổ biến nhất là chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng (chế độ tài sản cộng đồng). Bản thân chế độ tài sản cộng đồng cũng có nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố vận động khách quan của các điều kiện kinh tế - xã hội. Ngoài việc ghi nhận hình thức chế độ tài sản cộng đồng, pháp luật HN&GĐ của một số nước còn ghi nhận hình thức chế độ phân sản. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, quan niệm của các nhà làm luật luôn lấy lợi ích vật chất làm trọng, lợi ích cá nhân được đề cao, sự bền vững của gia đình vì thế được xem xét dựa trên vấn đề đảm bảo lợi ích cá nhân của vợ, chồng.
Khác với quan điểm của các nhà làm luật tư sản, nhà làm luật các nước XHCN không quan niệm hôn nhân là một loại “hợp đồng dân sự” [24], mà thực chất hôn nhân là sự liên kết tình cảm giữa nam và nữ trong quan hệ vợ chồng. Sự liên kết này không phụ thuộc vào tính toán vật chất mà dựa trên cơ sở tình yêu thương, quý trọng, bình đẳng và tự nguyện giữa vợ và chồng. Pháp luật XHCN cũng tôn trọng và phát huy quyền tự do cá nhân, lợi ích riêng của vợ, chồng, nhưng để đảm bảo lợi ích chung của gia đình, của cộng đồng và xã hội, pháp luật quy định rất cụ thể các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Vợ chồng phải tuân thủ sự quy định của pháp luật, không thể bằng những thoả thuận của mình làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó.
Xuất phát từ quan niệm trên, nhà làm luật các nước XHCN đã không thừa nhận chế độ tài sản ước định, mà chỉ thừa nhận chế độ tài sản pháp định, như: Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba. Trong đó, hình thức chế độ tài sản pháp định thường được lựa chọn là chế độ tài sản cộng đồng, trong đó chế độ cộng đồng tạo sản được áp dụng phổ biến nhất (ở Việt Nam có thời kỳ áp dụng chế độ cộng đồng toàn sản - Luật HN&GĐ năm 1959).
Hiện nay, Việt Nam đã ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận:
Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận [60, Điều 28].
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì thoả thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn [60, Điều 47]. Tiếp đó pháp luật cũng quy định: vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung thoả thuận về chế độ tài sản [60, Điều 49].
Chế độ tài sản pháp định được áp dụng trong pháp luật HN&GĐ ở các nước XHCN cũng thể hiện tính ưu việt của nó trong việc gắn lợi ích cá nhân của vợ, chồng với lợi ích chung của gia đình, tuy nhiên, do đặc thù của mỗi nước ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau sẽ quy định hình thức chế độ tài sản pháp định là khác nhau. Có nước đã quy định chế độ tài sản pháp định nhưng đồng thời cũng ghi nhận vợ chồng có quyền thoả thuận thay đổi một số nội dung trong chế độ tài sản được pháp luật quy định với điều kiện thoả thuận đó phải có lý do chính đáng và không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình. Việc ghi nhận nội dung này thể hiện sự thông thoáng, hạn chế quy định cứng nhắc của pháp luật, đặc biệt tạo điều kiện để vợ, chồng có thể tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế vì lợi ích chung của gia đình.