Các Nguyên Tắc Cơ Bản Của Việc Chia Tài Sản Chung Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân

pháp khác như: tiền thưởng, khoản trợ cấp thường xuyên hoặc bất thường mà vợ chồng nhận được như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp thai sản…, tiền trúng xổ số… và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung. Theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam, việc xác định là tài sản chung vợ chồng hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được căn cứ vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc tài sản. Trong thời kỳ hôn nhân, tùy vào nguồn gốc tài sản được quy định trong các điều luật nêu trên, sẽ xác định được đó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng. Thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân là ranh giới để xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Về nguyên tắc thì những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn luôn là tài sản riêng của một bên vợ, chồng.

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Hiểu một cách khái quát thì thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là “khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân” [36, Điều 3, Khoản 13]. Thời kỳ hôn nhân được tính từ thời điểm hai bên nam nữ đăng ký kết hôn đến thời điểm chấm dứt hôn nhân do một bên vợ hoặc chồng chết, vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết hay do ly hôn bằng bản án hoặc quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật.

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định chế độ tài sản của vợ chồng có thể là chế độ tài sản pháp định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chế độ tài sản pháp định được quy định tại khoản 1 điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014. Tài sản chung của vợ chồng thuộc khối tài sản chung hợp nhất, phần quyền sở hữu của vợ chồng không được xác định trước. Đối với khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc quản lý, sử dụng. Chế độ tài sản này bắt đầu từ khi quan hệ hôn nhân được xác lập và thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Trong một số trường hợp, vợ chồng có

thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, phần tài sản chung được chia cho mỗi bên vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mặc dù quy định này đã được ghi nhận từ Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014, vì thế cũng đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tác giả Phạm Thị Tươi đã đưa ra khái niệm chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau:

Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản vốn là tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng theo sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng khi có những lý do nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ chồng và người thứ ba có liên quan mà không làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng trước pháp luật [41].

Cũng liên quan đến khái niệm chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tác giả Phạm Hồng Minh Hoàng lại cho rằng:

Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng theo thỏa thuận hoặc do Tòa án quyết định trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác. Việc chia tài sản chung của vợ chồng được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý của việc này không làm chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng trước pháp luật [15].

Trên cơ sở tìm hiểu các quy định về thời kỳ hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tác giả xin đưa ra định nghĩa khái quát

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau: Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp được pháp luật quy định trong đó vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm tách một phần hoặc chuyển toàn bộ tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng với điều kiện không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình, của các con và không nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng.

Có thể nói các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: về trường hợp chia, hình thức chia, hậu quả pháp lý của việc chia đã phát huy được hiệu quả, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng và các thành viên của gia đình cũng như lợi ích của bên thứ ba tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại với vợ, chồng.

Chia tài sản chung của vợ chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh - 3

1.2. Các nguyên tắc cơ bản của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định là những tư tưởng chỉ đạo mang tính chi phối, định hướng cho mọi hoạt động của các chủ thể tham gia vào việc giải quyết các yêu cầu liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về các nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vì vậy ít nhiều đã gây ra những khó khăn trong thực tiễn áp dụng luật. Căn cứ từ lý luận và thực tế cho thấy việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cần phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Cụ thể là:

Thứ nhất, nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản.

Nguyên tắc bình đẳng được xem là nguyên tắc cơ bản giữa các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ giữa vợ chồng nói

riêng. Nguyên tắc này được thể hiện trong các văn bản pháp luật có giá trị cao nhất như Hiến pháp quy định về quyền bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật và quyền tự do kinh doanh của công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” [34, Điều 33]. Quyền cơ bản này của công dân đã được cụ thể hóa và quy định ở Bộ Luật dân sự cũng như các Luật chuyên ngành và các văn bản pháp luật khác. Điều 5 BLDS năm 2005 đã ghi nhận trong quan hệ dân sự các chủ thể đều bình đẳng với nhau, Điều 8 BLDS năm 2005 cũng quy định trong quan hệ vợ chồng thì vợ, chồng là những chủ thể độc lập khi tham gia bất cứ một giao dịch hợp pháp nào mà bên kia không có quyền ngăn cản. BLDS năm 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững” [29, Điều 40]. Quy định này đã thể hiện sự bình đẳng về mọi mặt của vợ chồng trong mọi quan hệ xã hội.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể hơn nữa về quyền bình đẳng của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan” [36, Điều 17]. Quyền bình đẳng đó thể hiện rõ trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc và quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân cũng như tài sản liên quan đến đời sống chung của gia đình như việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái hay xây dựng và phát triển đời sống kinh tế của gia đình.

Quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng còn được thể hiện trong việc yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời

kỳ hôn nhân. Trong trường hợp yêu cầu Tòa án chia tài sản chung thì sẽ giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 tức là chia tài sản như khi vợ chồng ly hôn. Tài sản của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Như vậy, những quy định cụ thể của Luật HN&GĐ năm 2014 đã phần nào thực hiện hóa nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản. Mặc dù sự đóng góp của vợ, chồng vào khối tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là khác nhau nhưng khi thực hiện việc chia tài sản chung thì pháp luật vẫn luôn thể hiện sự công bằng, bình đẳng của cả vợ và chồng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay luôn mang đến những cơ hội đồng thời là những thách thức đối với mỗi cá nhân khi họ tham gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên vợ hoặc chồng tham gia vào sản xuất kinh doanh riêng cần phải đảm bảo được quyền bình đẳng của vợ chồng nhằm thực hiện các quyền năng về tài sản của vợ chồng cũng như đảm bảo cho cuộc sống của gia đình được bền vững.

Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng.

Thỏa thuận” có nghĩa là “đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận” [43]. BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng như các văn bản pháp luật khác đều tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung. Đây hoàn toàn là sự thỏa thuận riêng của vợ chồng, người thứ ba và các chủ thể có liên quan đến tài sản của vợ chồng không thể can thiệp đến thỏa thuận chia này. Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân xuất phát

từ nhu cầu thực tế của vợ hoặc chồng. Ngoài những trường hợp chia bị coi là vô hiệu như quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ năm 2014 thì vợ chồng hoàn toàn có quyền thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung, có thể vì mục đích kinh doanh riêng của một bên vợ hoặc chồng, hoặc những lý do chính đáng khác. Tuy nhiên sự thỏa thuận này chỉ được coi là hợp pháp khi nó được xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, cưỡng ép đồng thời đó là ý chí độc lập của vợ, chồng dựa trên sự nhận thức đầy đủ và rõ ràng về những hậu quả pháp lý phát sinh sau khi chia tài sản chung.

Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định cụ thể về hình thức cũng như các nội dung chính khi vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể là, thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng phải được lập thành văn bản và phải có nội dung chính bao gồm: lý do chia tài sản, phần tài sản chia, phần tài sản còn lại không chia (nếu có) và những nội dung khác (nếu có). Ngoài ra, vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan công chứng có thẩm quyền công chứng văn bản thỏa thuận phân chia tài sản hoặc yêu cầu người khác làm chứng văn bản đó. Những quy định trên nhằm tránh việc vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung để trốn tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba hay với mục đích tẩu tán tài sản, đồng thời nó cũng thể hiện sự tự do thỏa thuận của vợ chồng là hoàn toàn tuyệt đối về việc định đoạt khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của họ.

Có thể nói pháp luật tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của vợ chồng trong việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất kinh doanh riêng của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận ấy lại bị hạn chế và không được chấp nhận trong những trường hợp như: ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, còn đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có

khả năng lao động; trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại… [36, Điều 42].

Thứ ba, nguyên tắc sự thỏa thuận của vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.

Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định vợ chồng có quyền tự do thỏa thuận và định đoạt đối với khối tài sản chung của họ trong thời kỳ hôn nhân. Những quy định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân vợ hoặc chồng có thể thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ, đó có thể là việc đầu tư sản xuất kinh doanh riêng hay những nhu cầu cá nhân khác. Do đó khi vợ chồng có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì họ có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng được tự do thể hiện ý chí trong việc thỏa thuận các nội dung liên quan đến việc phân chia tài sản chung. Tuy nhiên sự tự do thỏa thuận này không được làm ảnh hưởng hay gây bất lợi cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác. Nếu sự thỏa thuận của vợ chồng vi phạm đến quyền, lợi ích, vi phạm đạo đức xã hội thì pháp luật sẽ không thừa nhận và sự thỏa thuận của vợ chồng sẽ bị vô hiệu. Pháp luật điều chỉnh quyền tự do định đoạt tài sản của vợ chồng trên cơ sở sự tôn trọng quyền định đoạt của vợ chồng trong mối liên hệ và tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khác.

Tinh thần của nguyên tắc này được thể hiện và quy định cụ thể tại Khoản 2 điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 và điều 42 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo đó sự thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ bị vô hiệu khi với mục đích: trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan [36, Điều 42, Khoản 2]. Lợi ích chính

đáng của cộng đồng, của xã hội được bảo vệ bằng pháp luật và đạo đức xã hội, nó trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng. Nguyên tắc này thể hiện mục đích tôn trọng lợi ích của cộng đồng, của xã hội và lợi ích chính đáng của các cá nhân trong xã hội.

Thứ tư, việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.

So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật HN&GĐ năm 2014 đã có những quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con. Theo đó:

Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con có liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình…. [36, Điều 68, Khoản 4].

Đồng thời Luật HN&GĐ năm 2014 cũng ghi nhận:

Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo cho việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức; trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình [36, Điều 69, Khoản 1,2].

Chăm sóc và nuôi dạy con cái không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con mà nó còn là nghĩa vụ của cha mẹ đối với Nhà nước. Đối với bất kỳ quốc gia nào trẻ em là đối tượng chăm sóc đặc biệt vì đó là lực lượng lao động tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất

Xem tất cả 80 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí