Thực Tiễn Áp Dụng Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng

Luật HN&GĐ hiện hành chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồngchế độ tài sản pháp định, Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành tuy chưa có hiệu lực thi hành nhưng với nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được bổ sung (các Điều 47, 48, 49, 50) dễ nhận thấy sẽ giải quyết được các vấn đề liên quan tới tài sản vợ chồng như:

Đảm bảo được quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của mình. Vợ, chồng có thể tự bảo toàn khối tài sản riêng của mình, giảm hoặc tránh được những xung đột, tranh chấp về tài sản sau khi ly hôn, từ đó góp phần giảm chi phí khi ly hôn và giúp Toà án xác định được tài sản riêng, tài sản chung nhanh chóng và dễ dàng hơn. Nếu vợ chồng thực hiện chế độ tài sản theo thoả thuận thì khi ly hôn nếu tranh chấp về tài sản của vợ chồng, thì hôn ước là căn cứ giúp Toà án giải quyết thuận tiện và nhanh chóng.

Nếu xét về góc độ kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường, sở hữu cá nhân và tự do kinh doanh đang dẫn đến ý thức tự chủ ngày càng cao của cá nhân về sở hữu tài sản. Chế độ tài sản theo thoả thuận cho phép vợ chồng tự quyết định quyền sở hữu trong gia đình, tạo ra khả năng đôi bên có thể tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền đã theo thoả thuận, giúp họ giảm thiểu các rủi ro trong kinh doanh.

Tuy nhiên, chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận theo Luật HN&GĐ năm 2014 bộc lộ một số hạn chế như:

Thứ nhất, Điều 49 cho phép vợ chồng được sửa đổi, bổ sung thoả thuận về chế độ tài sản. Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba đã xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng, cho dù vợ, chồng có nghĩa vụ phải cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan nhưng với sự biến thiên của tài sản và những thủ tục khi áp dụng trong quá trình sửa đổi, bổ sung nội dung thoả thuận sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người khác đặc biệt là đối với bên tham gia là các nhà kinh doanh.

Thứ hai, trong thực tế hiện nay ở nước ta, thu nhập của vợ chồng trong gia đình còn ở mức thấp, tài sản để tích luỹ của nhiều gia đình không lớn hoặc không có, cho dù pháp luật có cho phép vợ chồng được lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thoả thuận thì điều này chỉ có các cặp vợ chồng tham gia quan hệ kinh doanh có cơ hội áp dụng.

Thứ ba, chế độ tài sản theo thoả thuận đề cao lợi ích cá nhân, mâu thuẫn với bản chất của gia đình là bổn phận và trách nhiệm, lợi ích riêng của cá nhân sẽ không đảm bảo cho gia đình có cuộc sống ổn định, bền vững.

Mặc dù vậy, để phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và xu thế phát triển nền kinh tế xã hội hiện nay thì quy định về chế độ tài sản theo thoả thuận được đưa vào Luật HN&GĐ năm 2014 là cần thiết, trong thời gian tới cần có hướng dẫn cụ thể để việc áp dụng chế độ tài sản ước định đạt hiệu quả cao.

Chương 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.


3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam - 10

3.1.1. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tiễn xét xử

3.1.1.1. Căn cứ xác định tài sản chung vợ chồng

Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành là chế độ cộng đồng tạo sản. Đây là chế độ tài sản có tính ưu việt nhất, kết hợp hài hoà giữa lợi ích của gia đình với lợi ích của cá nhân vợ, chồng. Thực tế áp dụng chế độ tài sản này trong các quan hệ HN&GĐ đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ hiện hành còn có điểm chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau trong vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, trong đó đáng chú ý là các vấn đề sau:

* Vấn đề thừa nhận tài sản chung của vợ chồng nhưng do một bên đứng tên trong giấy tờ về quyền sở hữu:

Luật HN&GĐ quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật có quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng” [54, Điều 27, Khoản 2]; [60, Điều 34, Khoản 1]. Các văn bản hướng dẫn cũng quy định nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên chỉ được xác định là nhập vào tài sản chung khi được lập thành văn bản, có chữ ký hai bên. Điều 5 Nghị định số 70/2001 quy định kể từ ngày Nghị định có hiệu lực, thì việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng phải được thực hiện. Nhưng trên thực tế, một số cơ quan có thẩm quyền đã không thực hiện đúng việc này, nhất là ở nông thôn. Việc kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử

dụng đất tại một số địa phương vẫn chỉ dựa trên kê khai của người dân để cấp cho người đã kê khai. Trong gia đình, đa số người chồng là người đứng ra kê khai nên được cấp giấy chứng nhận, có trường hợp chỉ ghi tên người chồng, có trường hợp ghi “hộ ông, bà ….” nhưng lại không ghi hộ là gồm những ai, nên không thể xác định được chính xác chủ sử dụng. Điều này dẫn đến các Toà án dễ gặp sai sót khi giải quyết án hôn nhân - gia đình ở khâu xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng.

Sau đây chúng tôi xin nêu một ví dụ cụ thể về việc giải quyết quan hệ tài sản của vợ chồng:

Vụ án giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Lẫm và bị đơn là anh Trần Văn Hoàng cùng trú tại bản C, xã Y, huyện YC, tỉnh S.

Chị Trần Thị Lẫm và anh Trần Văn Hoàng kết hôn năm 1999, đến năm 2010 do cuộc sống chung có nhiều mâu thuẫn nên chị Lẫm nộp đơn xin ly hôn với anh Hoàng. Trong số phần tài sản không thống nhất có nhà đất.

Theo hồ sơ thì nhà, đất thổ cư, đất vườn, đất canh tác, đất nương có nguồn gốc của bố mẹ anh Hoàng để lại gồm: đất ở 400m2 (trị giá 32.000.000 đồng), đất vườn 656m2 (trị giá 2.624.000 đồng), 03 mảnh đất lương (gồm thửa đất số 01 diện tích 2.340m2, thửa đất số 02 diện tích 494m2 có tổng trị giá 13.603.000 đồng và thửa số 07 diện tích 3.985m2 trị giá 19.108.000 đồng). Toàn bộ diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Trần Văn Hoàng.

- Chị Lẫm khai: gia đình anh em chồng có họp bàn giao cho vợ chồng chị được sở hữu nhà, đất. Anh Hoàng đã đứng tên trong GCNQSDĐ năm 1999, nên chị xác định toàn bộ tài sản nhà, đất là của vợ chồng, chị yêu cầu chia hiện vật cho chị.

- Anh Hoàng cùng anh trai cho rằng: đây là tài sản chung của anh, chị, em anh Hoàng nên không đồng ý chia.

Tại Bản án sơ thẩm số 05/2011/HNGĐ-ST ngày 24/5/2011 của Toà án nhân dân huyện YC đã giải quyết về tài sản như sau:

- Giao cho chị Lẫm quyền sử dụng thửa đất số 01 diện tích 2.340m2

thửa đất số 02 diện tích 494m2 có tổng trị giá 13.603.000 đồng.

- Giao toàn bộ diện tích đất ở 400m2, đất vườn 656m2 cho anh Hoàng và anh Thuý; Giao cho anh Hoàng quyền sử dụng đất thửa số 07 diện tích 3.985m2 trị giá 19.108.000 đồng.

Tại Bản án phúc thẩm số 18/2011/HNGĐ-PT ngày 20/9/2011, Toà án nhân dân tỉnh S đã quyết định:

- Giao chị Lẫm: 328m2 đất vườn trị giá 1.312.000 và quyền sử dụng

thửa đất số 07 diện tích 3.985m2.

- Giao anh Hoàng: 400m2 đất ở, 01 nhà gỗ lợp ngói 5 gian và 3 gian bếp lợp ngói; đất vườn 328m2, thửa đất nương số 01 và 02 có tổng trị giá

13.603.000 đồng.

Nghiên cứu tài liệu trong hồ sơ có cơ sở kết luận về giải quyết vấn đề tài sản là nhà đất trong vụ án như sau:

- Về các thửa đất nương: Ngay từ khi anh Hoàng, chị Lẫm chung sống với nhau, cả hai đã cùng quản lý, sử dụng, canh tác diện tích đất nương. Cả hai anh, chị đều có nhu cầu sử dụng, đều là người làm nông nghiệp. Anh Hoàng cũng có lời khai đồng ý chia cho chị đất nương, nên Toà án chia cho mỗi người một phần diện tích đất nương, tạo điều kiện cho mỗi bên ổn định cuộc sống. Do chị Lẫm đang nuôi 02 cháu nhỏ, lại là phụ nữ, có khó khăn hơn, Toà án cấp phúc thẩm có điều chỉnh, chia lại số thửa, diện tích cho mỗi bên là cần thiết.

- Về đất ở, đất vườn, nhà: Anh Hoàng kết hôn với chị Lẫm ngày 25/02/1999. Anh Hoàng được cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/1999. Biên bản họp gia đình thoả thuận giao tài sản cho anh Hoàng đề ngày 20/10/1998, trước

ngày anh chị kết hôn (Biên bản không có xác nhận của chính quyền). Toà án cấp phúc thẩm nhận định: “Khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh Hoàng không thoả thuận và không làm thủ tục cấp riêng, chính quyền địa phương xác nhận thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ tại địa phương vào năm 1999, toàn bộ diện tích anh Hoàng được cấp là Nhà nước cấp cho hộ gia đình” để xác định đây là tài sản chung của anh Hoàng - chị Lẫm và chia cho anh Hoàng, chị Lẫm mỗi người một phần là không đúng, bởi các căn cứ sau đây:

+ Nhà, đất ở, đất vườn đã được cấp GCNQSDĐ của UBND huyện YC ghi: “Chứng nhận ông Trần Văn Hoàng được quyền sử dụng 7875m2 đất tại…” và ghi số thửa, diện tích từng thửa. Trong quyết định cũng như trong giấy chứng nhận không ghi cấp cho “hộ gia đình” như Bản án phúc thẩm đã nhận định.

+ Theo lời khai của các nhân chứng và chị Lẫm cũng thừa nhận nhà, đất có từ trước khi anh, chị kết hôn. Chị Lẫm chỉ khai: “Khi chúng tôi xây dựng gia đình, anh Thuý (anh cả của anh Hoàng) có bàn giao nhà đất cho vợ chồng tôi sở hữu và sử dụng bằng lời nói không có giấy tờ …”. Chị Lẫm không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì khác để chứng minh tài sản trên đã được cho cả hai vợ chồng.

+ Bố mẹ anh Hoàng đều chết trước khi anh Hoàng, chị Lẫm kết hôn. Hai ông bà có bảy người con. Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện bảy anh chị em thống nhất cho vợ chồng anh Trần Văn Hoàng nhà đất đang tranh chấp. Dù anh Thuý có nói cho vợ chồng anh Hoàng nhà đất như chị Lẫm khai, thì việc tặng cho miệng (nếu có) cũng vô hiệu cả hình thức lẫn nội dung.

Do đó, Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vợ chồng anh Hoàng đang sống, sử dụng nhà đất, hàng năm đóng thuế cho Nhà nước và lời xác nhận của ông Đỗ Xuân Các (nguyên Chủ tịch xã cũ) là “sổ đỏ giao đất thuộc hộ anh

Hoàng năm 1999 là hoàn toàn hợp pháp, không có tranh chấp theo đơn trình bày là hoàn toàn đúng” để xác định đất thổ cư, đất vườn, được cấp cho hộ gia đình anh Hoàng là tài sản chung của vợ chồng là không có căn cứ, không đúng pháp luật.

Về cách thể hiện ở phần quyết định của bản án: Trên diện tích đất ở, đất vườn có 5 gian nhà ở lợp ngói, 3 gian nhà bếp lợp ngói… Toà án cấp sơ thẩm nhận định nhà, đất ở, đất vườn của anh em bên chồng, không phải tài sản của vợ chồng, nhưng khi quyết định lại tuyên: “giao toàn bộ diện tích đất ở 400m2, đất vườn 656m2 cho anh Trần Văn Hoàng, anh Trần Văn Thuý” là không đúng.

Nhà, đất ở, đất vườn nói trên không phải là của riêng anh Hoàng, anh Thuý mà là di sản do bố mẹ hai anh để lại cho bảy anh em. Do đó, quyết định như Toà án cấp sơ thẩm là không rõ ràng, thiếu chính xác. Mặt khác trên đất có các công trình kiến trúc… nhưng Toà án cấp sơ thẩm không đề cập gì đến các công trình trên đất. Vậy các công trình đó ai được sử dụng.

Trong trường hợp đã kết luận không phải là tài sản chung vợ chồng thì bác yêu cầu của đương sự về vấn đề này là đủ [66].

* Việc vận dụng nguyên tắc suy đoán tài sản chung:

Luật HN&GĐ quy định: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung” [54, Điều 27, Khoản 3]; [60, Điều 33, Khoản 3].

Quy định về việc suy đoán tài sản chung trong Luật HN&GĐ có ý nghĩa như một nguyên tắc có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp giữa vợ chồng với nhau về nguồn gốc tài sản. Tuy nhiên, với tư cách là một nguyên tắc suy đoán, tác dụng của nguyên tắc này chỉ dừng lại ở chỗ thiết lập một sự suy đoán, không có ý nghĩa khẳng định chắc chắn tất cả tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Trong thực

tế một số Toà án trong quá trình giải quyết đã không bám sát nguyên tắc suy đoán trên dẫn đến thiếu sót trong bản án, quyết định của mình. Ví dụ, TAND quận Ba Đình - Hà Nội khi giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn giữa anh Phạm Quý Tuân và chị An Thị Phượng về ngôi nhà số 18 phố Sơn Tây - Hà Nội (3/2001), đã xác định ngôi nhà đó thuộc sở hữu riêng của anh Tuân với các lý do: Giấy tờ mua nhà này đứng tên anh vào ngày 22/10/1991 và theo anh Tuân: nguồn gốc ngôi nhà là do bà Mão (mẹ anh) bán nhà số 34 phố Nguyễn Trường Tộ rồi cho anh tiền để mua. Tuy nhiên, trên thực tế chính bà Mão cũng xác nhận bà không uỷ quyền cho anh Tuân mua nhà số 18 phố Sơn Tây và cũng không có tài liệu gì để chứng minh là bà đã cho anh Tuân tiền để mua nhà này. Với những tình tiết trên, không đủ chứng cứ để khẳng định anh Tuân có quyền sở hữu riêng đối với nhà số 18 phố Sơn Tây. Vì vậy, Bản án phúc thẩm số 54/LHPT ngày 24/5/2001 của TAND Thành phố Hà Nội đã sửa án sơ thẩm theo hướng: Xác định nhà số 18 Sơn Tây là tài sản chung của anh Tuân và chị Phượng để chia theo pháp luật [24].

3.1.1.2. Việc nhập tài sản riêng của vợ hoặc chồng vào tài sản chung

Việc nhập tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung. Đây là một nguồn hình thành tài sản chung của vợ chồng. Đối với tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng (do có trước khi kết hôn, được thừa kế riêng, được tặng cho riêng …) nhưng bên kia có tài sản riêng đã tự nguyện nhập vào khối tài sản chung, hoặc cả vợ chồng có thoả thuận việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung, thì được coi là tài sản chung của vợ chồng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000, khoản 1 Điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 thì việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 18/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí