Khôi Phục Chế Độ Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Sau Khi Chia Tài Sản Chung Trong Thời Kỳ Hôn Nhân

chung của vợ chồng. Nhưng nếu xem xét khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP thì mọi tài sản mà vợ chồng tạo ra cũng như mọi thu nhập hợp pháp từ lao động của mỗi bên đều là tài sản riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản chung của vợ chồng không còn tồn tại vì sở hữu chung của vợ chồng về cơ bản có nguồn gốc từ thu nhập do lao động. Như vậy đã có sự mâu thuẫn giữa hai điều luật, do đó pháp luật cần đưa ra hướng giải quyết để tránh hiểu sai nội dung điều luật trong thực tiễn áp dụng.

- Hai là, khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định toàn bộ thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng là không phù hợp với mong muốn thực tế của vợ chồng. Mục đích của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là để đầu tư kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ dân sự,… mà không muốn chấm dứt chế độ sở hữu chung. Có quan điểm cho rằng cần phải có sự phân biệt hai loại thu nhập phát sinh sau khi chia tài sản chung là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia do chính hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập khác của vợ, chồng không liên quan đến phần tài sản đã được chia để phân biệt chính xác tài sản chung hay tài sản riêng [21]. Nếu sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vì mục đích đầu tư kinh doanh, vợ chồng tự nguyện nhập phần hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản này phải là tài sản chung của vợ chồng, chỉ được xem là tài sản riêng nếu vợ chồng không có thỏa thuận. Ngoài ra, những thu nhập hợp pháp khác như tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp,… không liên quan đến phần tài sản được chia vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Do đó, quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP là không hợp lý, trái luật và cần phải bị vô hiệu hóa [16, tr.123]. Theo quan điểm của chúng tôi, khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP cần điều chỉnh theo hướng xem xét thu nhập do

lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của mỗi bên nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác, những thu nhập còn lại không liên quan đến tài sản đã được chia là tài sản chung của vợ chồng để phù hợp với nội dung quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000.

Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng không bị thay đổi sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, do đó sau khi đã chia tài sản chung mà một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên kia vẫn có quyền thừa kế tài sản của bên đã chết theo pháp luật hoặc theo di chúc.

Thứ hai, quan hệ về tài sản của vợ chồng đối với gia đình sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Pháp luật HN&GĐ hiện hành chỉ mới quy định hậu quả pháp lý về tài sản để có căn cứ xác định tài sản riêng, tài sản của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, chưa có quy định về hậu quả pháp lý về tài sản của vợ chồng đối với việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của gia đình. Sau khi chia tài sản chung, vợ chồng vẫn phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như chi phí học hành, ăn ở, khám chữa bệnh, và những nhu cầu khác. Nếu chia một phần tài sản chung thì phần tài sản chung còn lại chưa chia có thể đáp ứng một phần hoặc toàn bộ chi phí này. Nhưng nếu chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì việc thực hiện nghĩa vụ với gia đình phải lấy từ nguồn tài sản nào nếu tài sản chung không còn. Có quan điểm cho rằng để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của gia đình, đặc biệt là đối với con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động, tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có tài sản,… nên bổ sung vào khoản 1 Điều 6 Nghị định số

70/2001/NĐ-CP một nội dung bắt buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là “Tài sản bảo đảm cho các nhu cầu chung của gia đình” [18] và cần quy định cụ thể sau:

Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Toà án quyết định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình [18].

Chúng tôi đồng ý với quan điểm trên, ngoài ra qua nghiên cứu BLDS Pháp cũng có quy định tương tự [27] nên việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không đương nhiên làm giảm đi trách nhiệm chung của vợ chồng đối với con cái và các thành viên trong gia đình. Ngoài ra việc định đoạt tài sản riêng của vợ chồng bị hạn chế trong trường hợp “Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng” [31]. Trong trường hợp tài sản chung còn lại không đủ để đảm bảo đời sống chung của gia đình thì việc phải lấy tài sản riêng của vợ chồng để đảm bảo thực hiện. Quy định này nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia đình và thể hiện được truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.

Nếu sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà một bên vợ hoặc chồng không sống chung với con thì có đặt ra vấn đề cấp dưỡng không? Nuôi dạy, chăm sóc con cái trong trường hợp có cả cha lẫn mẹ đã là một quá trình không dễ dàng đối với vợ chồng, nhưng nếu chỉ còn một người sống chung với con thì việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với con sẽ khó khăn hơn. Không chỉ thiếu thốn tình cảm của cha hoặc mẹ, con cái có thể không được chăm lo đầy đủ về tài sản nếu trong trường hợp một bên cố tình trốn tránh không đóng góp chi phí sinh hoạt hàng ngày. Chia tài sản chung không

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

chấm dứt quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con, vì vậy vợ chồng phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, đặc biệt là đối với con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động, tàn tật, hạn chế năng lực hành vi dân sự,… Vì vậy luật HN&GĐ cần bổ sung nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ chồng đối với con sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp vợ chồng sống riêng mỗi nơi hoặc trường hợp bên không nhận nuôi con trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ.

2.6 Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam - 10

Pháp luật quy định vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, đồng thời cũng cho phép họ có quyền khôi phục lại chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi đã chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại. Điều này đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng trong quan hệ tài sản. Khôi phục chế độ tài sản chung sau khi chia trong thời kỳ hôn nhân là khôi phục lại căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 27 và Điều 32 Luật HN&GĐ, vì chế độ sở hữu chung của vợ chồng vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên việc khôi phục này chỉ đặt ra trong trường hợp chia toàn bộ tài sản nhưng thực tế vẫn tồn tại việc chia một phần tài sản chung của của vợ chồng như đã phân tích ở mục 2.4. Chia một phần tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì chế độ tài sản chung của vợ chồng vẫn còn nên không phụ thuộc vào thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung. Điều này sẽ mâu thuẫn với quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP vì trong đó không ghi rõ là chia một phần hay chia toàn bộ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Do đó cần sửa đổi Nghị định 70/2001/NĐ-CP để đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về khôi phục chế độ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Ngoài ra, chúng ta cần phân biệt rõ việc khôi phục chế độ tài sản chung

của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ được đặt ra sau sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Nhập tài sản riêng vào tài sản chung có thể đặt ra bất cứ lúc nào kể từ khi bắt đầu thời kỳ hôn nhân. Khôi phục chế độ tài sản chung sau khi đã chia sẽ làm thay đổi cơ sở pháp lý để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Còn đối với việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung chỉ xác định là tài sản được nhập thành tài sản chung của vợ chồng. Đây là hai sự kiện pháp lý có sự khác nhau cơ bản về hậu quả pháp lý.

Do đó, trong trường hợp vợ chồng có yêu cầu khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phải tuân thủ theo hình thức, nội dung và thời điểm mà pháp luật đã quy định.

2.6.1 Hình thức và nội dung của thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng

Sau khi vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản. Đây là cơ sở pháp lý giải quyết mọi tranh chấp tài sản phát sinh liên quan đến tài sản vợ chồng. Văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là cơ sở pháp lý vững chắc, nếu muốn xoá bỏ nó chỉ có thể bằng một văn bản thoả thuận khác. Thoả thuận khôi phục tài sản chung sẽ trở thành một chứng cứ pháp lý quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, vì vậy nó phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.

Khoản 1 Điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP đã quy định văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản của vợ chồng muốn có giá trị pháp lý thì trong văn bản đó phải ghi rõ các nội dung sau:

+ Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;

+ Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;

+ Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;

+ Thời điểm phát sinh hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung;

+ Các nội dung khác (nếu có).

Bên cạnh đó văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản để có cơ sở xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản. Ngoài ra văn bản này phải có chữ ký của cả hai vợ chồng nhằm ràng buộc trách nhiệm của mỗi bên đối với tranh chấp phát sinh về sau và làm cho văn bản thỏa thuận có giá trị pháp lý.

Hiện nay, pháp luật hiện hành chỉ dừng lại ở những quy định mang tính tuỳ nghi cho phép vợ chồng tự do thoả thuận chia hoặc khôi phục tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên việc thỏa thuận chia hay khôi phục chế độ tài sản chung đó, vợ chồng có thể hoàn toàn tự do thỏa thuận bất cứ lúc nào mà không trái với quy định của pháp luật. Vì vậy, trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, văn bản thoả thuận đó có thực sự bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng, các thành viên trong gia đình và lợi ích của người thứ ba có liên quan hay không, hay lại trở thành công cụ để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật? Để những quy định của pháp luật thực sự trở thành công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân thì nên chăng các văn bản thoả thuận chia tài sản hay khôi phục tài sản chung phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực. Việc đó không làm hạn chế quyền định đoạt của vợ chồng mà còn góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng và những người có quyền và lợi ích liên quan.

2.6.2 Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung

Tương tự quy định về thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung cũng không được Luật HN&GĐ năm

2000 ghi nhận, nhưng được hướng dẫn thi hành tại Điều 10 Nghị định 70/2001/NĐ-CP. Theo đó, việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực trong những trường hợp sau:

Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung được xác định theo thoả thuận của vợ chồng ghi trong văn bản thoả thuận khôi phục tài sản. Trong trường hợp văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.

Nếu trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng phải được công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm có hiệu lực của thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng được xác định như sau:

- Nếu trong văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung xác định thời điểm có hiệu lực của thoả thuận đó thì thời điểm có hiệu lực của thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung là ngày xác định trong văn bản thoả thuận.

- Nếu trong văn bản thoả thuận không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.

Pháp luật cho phép vợ chồng có quyền thoả thuận công chứng hoặc chứng thực văn bản thoả thuận chia tài sản chung. Tuy nhiên, do việc chia tài sản chung được công chứng, chứng thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên việc khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Việc công chứng, chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là việc xác nhận tính hợp pháp của thoả thuận chia tài sản chung cũng như khôi phục chế độ tài sản chung. Vì vậy, nếu thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng đã được công chứng, chứng thực thì khi đó văn bản thoả

thuận khôi phục chế độ tài sản chung mới có thể trở thành căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp tài sản trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày công chứng, chứng thực.

Văn bản khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng, chứng thực hợp pháp sẽ là bằng chứng pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng cũng như những người có liên quan. Đây là bằng chứng thuyết phục và hợp pháp vì nó không thể bị sửa đổi, bị làm giả mạo sau khi được công chứng, chứng thực, vì vậy nên chăng pháp luật quy định bắt buộc việc công chứng, chứng thực tất cả các bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, nó sẽ một ngăn chặn được việc lợi dụng những quy định của pháp luật để trốn tránh các nghĩa vụ tài sản, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí