Chương 2
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH
2.1. TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
2.1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để cuộc sống chung của vợ chồng được duy trì là việc tạo lập tài sản để nuôi sống gia đình. Việc xác định tài sản chung của vợ chồng được quy định tương đối đầy đủ, cụ thể, căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng dựa trên hai cơ sở là “thời kỳ hôn nhân” và “nguồn gốc tài sản”. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Lịch Sử
- Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Hn&gđ Của Nước Ta Từ Cách Mạng Tháng Tám (1945) Đến Nay
- Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Theo Luật Hn&gđ
- Tài Sản Riêng Của Vợ, Chồng Bao Gồm Tài Sản Mà Mỗi Bên Vợ, Chồng Có Từ Trước Khi Kết Hôn
- Thực Tiễn Áp Dụng Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung [54, Điều 27, Khoản 1, 3].
Trên cơ sở khoản 1, Điều 27, Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung như sau:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng [60, Điều 33, Khoản 1, 2].
2.1.1.1. Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong thời kỳ hôn nhân
Theo Khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân” [54]; [60]. Như vậy, việc xác định tài sản chung của vợ chồng sẽ được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết. Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được tạo thành từ các nguồn gốc sau:
- Những tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng:
Hành vi tạo ra tài sản là một trong những chức năng chính để nuôi sống gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sức trong việc tạo lập tài sản
để duy trì cuộc sống và đảm bảo cho gia đình tồn tại. Hành vi tạo ra tài sản là việc vợ chồng tạo ra tài sản bằng chính sức lao động của mình dựa trên công việc hoặc nghề nghiệp chuyên môn của mình. Vợ chồng có thể trực tiếp tạo ra tài sản như trồng trọt, chăn nuôi,... hoặc thông qua các hợp đồng với người khác như hợp đồng lao động, mua bán tài sản nhằm tạo ra thu nhập đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của gia đình.
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng là việc hưởng thành quả lao động do tham giao lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh theo tính chất nghề nghiệp, công việc, chuyên môn mà vợ chồng thực hiện. Tài sản chung từ thu nhập hợp pháp của vợ chồng thường là tiền lương, tiền công lao động, tài sản thu được qua hoạt động sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi, lợi nhuận thu được thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh....
Ngoài ra, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm các khoản thu nhập hợp pháp khác nhưng không do lao động như thu nhập do trúng thưởng [70], khoản tiền thưởng, tiền trợ cấp. Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung thêm điểm mới khi quy định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, đó là: các hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Các hoa lợi, lợi tức từ tài sản, do việc khai thác tự nhiên hoặc khai thác pháp lý: cây con sinh ra từ cây mẹ, gia súc con sinh ra từ gia súc mẹ, cá con, chứng, tiền cho thuê nhà, tiền lãi tiết kiệm,… bất kể tài sản gốc là của riêng hay của chung, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đều là của chung.
- Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung:
Việc xác lập loại tài sản này phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu hoặc do pháp luật quy định về thừa kế. Việc tặng cho một tài sản chung cho cả vợ và chồng thường được ghi nhận trong thực tiễn Việt Nam, người tặng cho thường là cha mẹ của vợ hoặc chồng. Khi xác lập hợp đồng tặng cho chung hoặc di chúc để lại tài sản chung cho vợ chồng, chủ sở hữu không có sự
phân biệt kỷ phần cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Nếu có sự xác định tỷ lệ tài sản cho mỗi bên vợ, chồng thì phần tài sản đó sẽ thuộc tài sản riêng của mỗi bên theo tỷ lệ được thừa kế, tặng cho và chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hay vợ chồng thoả thuận đó là tài sản chung.
Trường hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế thì tài sản được thừa kế “theo hàng thừa kế” đó thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có thoả thuận là tài sản chung của vợ chồng [25, tr.157].
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn:
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP:
+ Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hay chồng được Nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối; đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được Nhà nước giao, đất chuyên dùng).
+ Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hay chỉ một bên vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản chung của vợ chồng đối với giá trị quyền sử dụng đất mà vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của người khác.
+ Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
2.1.1.2. Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung
Để xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững thì việc phát triển kinh tế, tạo lập tài sản của vợ chồng được các bên chú trọng. Khi cuộc sống hoà thuận hạnh phúc, việc xác định rạch ròi tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi bên ít được quan tâm, coi trọng. Vợ chồng thường có xu hướng sử dụng các tài sản có được vào mục đích chung của gia đình, giới hạn giữa tài sản chung và riêng không có sự phân biệt rõ ràng. Các bên thường có xu hướng nhập phần tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo đời sống của gia đình. Pháp luật ghi nhận việc thoả thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, giữa vợ và chồng có thể thoả thuận tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng. Việc nhập hay không nhập tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể mặc nhiên hoặc được thoả thuận bằng văn bản.
Khi vợ chồng có mâu thuẫn về tình cảm thì yếu tố tài sản cũng được các bên đem ra tính toán. Do tính chất phức tạp của quan hệ tài sản mà việc xác định đâu là tài sản chung của vợ chồng và đâu là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng gặp nhiều khó khăn. Có trường hợp tài sản riêng của một bên được sử dụng nhằm đảm bảo cuộc sống chung của vợ chồng, giữa tài sản chung và tài sản riêng có sự chuyển hoá, chộn lẫn với nhau dẫn đến khó xác định chính xác. Do vậy, khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn giữ nguyên quy định tại khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung” [60].
Ví dụ: Anh A và chị B kết hôn với nhau, sau khi kết hôn anh A đã bán số vàng của mình có trước khi kết hôn để thêm tiền vào xây một ngôi nhà trên
mảnh đất được cha mẹ anh cho anh dùng làm chỗ ở chung cho hai vợ chồng. Như vậy, anh A đã tự nguyện nhập số vàng là tài sản riêng của anh (có được trước khi kết hôn) vào tài sản chung của vợ chồng (ngôi nhà chung). Việc nhập số vàng là tài sản riêng của anh A vào tài sản chung được coi là sự mặc nhiên vì số tiền có được do bán vàng đã dùng vào mục đích chung của gia đình. Tuy nhiên, nếu anh A muốn nhập tài sản riêng là mảnh đất do cha mẹ anh cho riêng anh hoặc mua trước khi kết hôn vào tài sản chung của vợ chồng thì phải làm các thủ tục pháp lý có liên quan. Việc anh dùng mảnh đất này để xây ngôi nhà chung cho vợ chồng không mặc nhiên được coi là nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Anh A muốn chứng minh tài sản nào là tài sản riêng của mình thì phải đưa ra được chứng cứ chứng minh, nếu không chứng minh được thì tuỳ từng trường hợp Toà án có thể suy đoán đó là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của anh A.
Như vậy, so với các văn bản pháp luật trước đây, Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa ra được điểm mới là nguyên tắc suy đoán tài sản chung của vợ chồng và được giữ nguyên trong Luật HN&GĐ năm 2014, đây là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ khối tài sản chung. Nguyên tắc này đã phần nào đảm bảo được sự công bằng trên cơ sở vì lợi ích chung của gia đình.
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tương đối cụ thể về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung. Theo khoản 2 Điều 219 BLDS năm 2005 và khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” [54]. Như vậy, về nguyên tắc, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Tại Luật HN&GĐ năm 2014 quy định như sau:
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường [60, Điều 29].
Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận [54, Điều 28]. Theo Luật HN&GĐ hiện hành quyền bình đẳng của vợ chồng còn được khẳng định rõ hơn đối với các tài sản cụ thể, việc định đoạt tài sản chung phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng trong trường hợp tài sản đó là bất động sản, là động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu hay tài sản đó đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình [60, Điều 35]. Như vậy, mọi giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình thì vợ chồng cần phải bàn bạc, thoả thuận với nhau thì những giao dịch đó mới có giá trị pháp lý.
Đối với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn hoặc để phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì chỉ cần một bên vợ hoặc chồng thực hiện hoặc đương nhiên coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng
nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới [54, Điều 25]. Quy định này khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng trong việc thực hiện các giao dịch dân sự nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình cũng chính là nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, đồng thời cũng khẳng định trách nhiệm của bên kia đối với các hành vi dân sự hợp pháp do vợ hoặc chồng mình thực hiện vì lợi ích chính đáng của gia đình. Ví dụ: người vợ ký kết với ông A hợp đồng vay tài sản với số tiền là 5.000.000 để mua thuốc chữa bệnh cho con. Trong trường hợp này, người vợ vay tiền nhằm mục đích phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình là chăm sóc sức khoẻ cho con nên cả hai vợ chồng đều phải có trách nhiệm trả nợ cho ông A. Trách nhiệm liên đới phát sinh đòi hỏi nghĩa vụ tài sản phải được thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng. Nếu tài sản chung không đủ thì vợ, chồng có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng.
Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý và sử dụng tài sản chung. Vợ, chồng sử dụng tài sản chung của vợ chồng đương nhiên được coi là có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Theo khoản 2 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000: “Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng” [54]. Luật HN&GĐ năm 2014 đã dành riêng một điều luật mới quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, theo đó vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thoả thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;