1.1.2 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tư tưởng chỉ đạo mang tính chi phối, định hướng cho mọi hoạt động và hành vi của các chủ thể tham gia vào việc giải quyết các vụ việc có liên quan đến yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật hiện hành không có quy định gì về nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên đã ít nhiều gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trước đây Luật HN&GĐ năm 1986 quy định việc chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại được chia Điều 42 - Luật HN&GĐ năm 1986, tức là chia như khi ly hôn. Tuy nhiên Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định gì về nguyên tắc chia.
Căn cứ từ lý luận và thực tế cho thấy việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Theo chúng tôi, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo những nguyên tắc cụ thể sau:
* Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng
BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác đều tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung. So với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã có quy định mới cho phép vợ chồng có thể tự thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đây là điểm khác so với BLDS Pháp và BLDS thương mại Thái Lan khi chỉ quy định việc chia tài sản chung phải được thực hiện qua con đường tư pháp, do Tòa án quyết định. “Thỏa thuận” có nghĩa là “đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận” [51]. Theo đó, vợ chồng đã bàn bạc, thảo luận trước đó rồi mới đi đến sự đồng ý chia tài sản chung. Trong đó họ đã cân nhắc đến vấn đề như hậu quả sau khi chia, nghĩa vụ của mỗi người đối với con cái và các thành viên trong gia đình. Người thứ ba hoặc các chủ
thể khác có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng đều không thể can thiệp đến thỏa thuận chia này.
Luật HN&GĐ hiện hành quy định việc thỏa thuận chia tài sản chung phải lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung như: lý do chia tài sản, phần tài sản chia, phần tài sản còn lại không chia (nếu có), thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung và những nội dung khác (nếu có). Điều này nhằm tránh việc vợ chồng thỏa thuận với mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với người khác. Ngoài ra, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung có thể có người làm chứng hoặc được công chứng theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật [4].
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy khi có tranh chấp về tài sản xảy ra, pháp luật cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận được với nhau về những vấn đề đang tranh chấp. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất để vợ chồng tránh được những bất đồng khi chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại hơn là việc yêu cầu tòa án giải quyết. Vợ chồng có thể thỏa thuận về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia là sở hữu riêng của mỗi người hay là tài sản chung hoặc có thể thỏa thuận về thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của một bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng hay vẫn là tài sản chung. Với quy định này đã cho thấy sự tự do thỏa thuận của vợ chồng là hoàn toàn tuyệt đối về việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy Luật HN&GĐ năm 2000 rất đề cao nguyên tắc tự thỏa thuận khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật HN&GĐ hiện hành tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng, nhưng sự thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác thì không được công nhận theo quy định tại Khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000.
* Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản chung
Có thể bạn quan tâm!
- Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam - 1
- Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam - 2
- Không Làm Chấm Dứt Quan Hệ Hôn Nhân Trước Pháp Luật
- Pháp Luật Dân Sự Và Thương Mại Thái Lan
- Quyền Yêu Cầu Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng về tài sản là một trong những quyền bình đẳng cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đây là sự cụ thể hóa quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân giữa công dân nam và công dân nữ, hay còn gọi là quyền bình đẳng giới. Chính vì vậy, để tạo điều kiện và cơ hội phát triển ngang bằng cho vợ chồng, pháp luật nước ta đã ghi nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ nói chung và sự bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản chung nói riêng trong nhiều văn bản luật khác nhau.
Trước tiên, việc bình đẳng giữa vợ chồng được ghi nhận trong Hiến pháp theo những nguyên tắc nhất định. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Bình đẳng trước pháp luật theo quy định này còn bao hàm cả nội dung bình đẳng nam nữ, bình đẳng vợ chồng. Đó là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá mức độ tiến bộ của một xã hội, là mức độ giải phóng phụ nữ, giải phóng vị trí lệ thuộc của người vợ trong gia đình. Ngoài ra, xuất phát từ Điều 57 Hiến Pháp năm 1992 công nhận: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Cụ thể hóa quyền này, Bộ luật Dân sự, Luật Doanh Nghiệp và một số văn bản pháp luật khác đã quy định cho các chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh có các quyền như: “thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề, hình thức đầu tư, kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, Điều 63 Hiến pháp năm 1992 cũng quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Đây là sự ghi nhận quyền bình đẳng về giới, với tư cách là công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phụ nữ và nam giới đều bình đẳng trước pháp luật.
Bình đẳng giữa nam nữ nói chung và bình đẳng vợ chồng nói riêng đã được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật. Điều 5 BLDS năm
2005 đã ghi nhận trong quan hệ dân sự các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ lý do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, về hình thức sở hữu khi giao kết hợp đồng dân sự, đều được hưởng các quyền và phải gánh vác những nghĩa vụ như nhau. Tại Điều 8 BLDS năm 2005 cũng quy định trong quan hệ vợ chồng, vợ, chồng là những chủ thể độc lập khi tham gia bất kỳ một giao dịch hợp pháp mà bên kia không có quyền ngăn cản, mỗi bên vợ chồng phải tôn trọng quyền bình đẳng đó. Có như vậy, thì gia đình mới hạnh phúc và xã hội mới phát triển được. Mặt khác, các chủ thể phải luôn tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10 Bộ Luật Dân Sự năm 2005). Có nghĩa rằng, quyền bình đẳng luôn nằm trong khuôn khổ pháp luật. Quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản luôn được tôn trọng phát huy, luôn hướng tới sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, và trong một chừng mực có thể, bảo vệ lợi ích chung của gia đình và xã hội. Ngoài ra, Điều 40 BLDS năm 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”. Quy định này đã thể hiện sự bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình, cũng như phải có sự bình đẳng trong việc chia tài sản của vợ chồng, nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững, đồng thời có thể hạn chế được các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống vợ chồng và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể hơn về bình đẳng giữa vợ chồng, Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2000: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Có nghĩa vợ chồng không chỉ được bình đẳng trong quan hệ nhân thân mà còn được bình
đẳng trong quan hệ tài sản: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cũng như phân chia tài sản. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đối với tài sản chung thể hiện ở việc: tài sản chung đó không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng tạo ra một cách trực tiếp mà có thể do một bên vợ hoặc chồng tạo ra và cũng không phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên. Điều này xuất phát từ tính chất đặc biệt của quan hệ vợ chồng, được gắn kết bởi mối quan hệ tình cảm gia đình, vợ chồng cùng chung sức chung lòng để tạo dựng khối tài sản chung, cùng có trách nhiệm và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dạy con cái [7].
Do đó dưới góc độ bình đẳng thì việc chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn cần thiết khi nền kinh tế của đất nước đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Nền kinh tế thị trường đã mở ra cho vợ chồng nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng những rủi ro không lường trước được. Chính vì vậy, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần phải đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng nhằm thực hiện được các quyền năng về tài sản của mỗi người và giúp cho cuộc sống gia đình bền vững, hôn nhân đạt được mục đích.
* Nguyên tắc tự do thỏa thuận nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của Luật HN&GĐ cho phép vợ chồng có quyền tự thỏa thuận. Quy định này đã thể hiện sự tự do của vợ chồng đối với khối tài sản chung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho vợ chồng có thể thỏa mãn những nhu cầu cá nhân nhất định. Dựa trên nguyên tắc này, khi vợ chồng có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật HN&GĐ và pháp luật dân sự có thể thỏa thuận với nhau bất kỳ các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, nếu vợ chồng có yêu cầu. Tuy nhiên thỏa thuận chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của vợ chồng khi thỏa thuận đó phù hợp với ý chí của nhà
nước. Hay nói cách khác, sự tự do ý chí trong thỏa thuận của vợ chồng phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định - giới hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để vợ chồng tự do thỏa thuận vô hạn thì thỏa thuận đó sẽ trở thành phương tiện để trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự với người khác và ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội. Lênin đã viết “phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự… không được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ dân luật” [24, tr.577]. Chính vì vậy, trong xã hội ta - xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức, kể các vợ chồng được lợi dụng ý chí tự do để biến những thỏa thuận của cá nhân thành phương tiện trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Do đó, thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng không nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với người khác; không nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự chung đối với gia đình thì có thể thực hiện được. Nếu thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không tuân theo quy định của pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác và trái đạo đức xã hội sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo các quy định của pháp luật HNGĐ và pháp luật dân sự về giao dịch dân sự.
Tóm lại các chủ thể tự do thỏa thuận trong bất kỳ trường hợp nào cũng cần đặt lợi ích của cộng đồng, của xã hội lên hàng đầu. Vì lúc này, lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
* Nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên không có khả năng lao động sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, dù chia một phần hay chia toàn bộ tài sản chung thì mối quan hệ pháp lý và tình cảm giữa vợ chồng vẫn chưa chấm dứt. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ về nhân thân của cha mẹ đối với con cái. Vì vậy, vợ chồng cần chú ý đảm bảo quyền lợi của các con, đặc biệt là con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động do mất năng lực hành vi dân sự, tàn tật,… Khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2000 đã ghi nhận:
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội [31].
Nuôi dạy con cái không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, mà đó còn là nghĩa vụ của cha mẹ trước Nhà nước và xã hội. Cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức của con, đặc biệt là con chưa thành niên. Công ước về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc đã cho rằng trẻ em là đối tượng “còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt” [12]. Vì vậy, trẻ em là đối tượng cần được chăm sóc đặc biệt, đồng thời đây là quyền cơ bản mà trẻ em được hưởng và phải đảm bảo thực hiện.Vì vậy, việc chia tài sản chung đòi hỏi vợ chồng phải có sự cân nhắc việc thực hiện các nghĩa vụ về chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con sau khi chia tài sản chung, đặc biệt là khi chia toàn bộ tài sản chung và khi vợ chồng sống riêng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích chung của con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động, tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự, đồng thời cũng thể hiện truyền thống tốt đẹp của gia đình
Việt Nam, luôn có sự yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Tóm lại các nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cơ sở pháp lý để giải quyết khách quan, đúng pháp luật yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Những nguyên tắc này có mối liên hệ mất thiết với nhau. Tuân thủ các nguyên tắc này là yêu cầu cần thiết, bắt buộc đối với vợ chồng, mọi chủ thể và cơ quan trong hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật.
1.2 Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Do tính chất đặc thù của yêu cầu chia tài sản chung được thực hiện khi hôn nhân còn tồn tại giữa vợ và chồng nên việc chia này có những đặc điểm khác với trường hợp chia tài sản chung khi ly hôn và chia tài sản chung khi một bên chết trước. Vì vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có một số đặc điểm cơ bản sau:
1.2.1 Cách phân chia đặc biệt
Khi hôn nhân đã đổ vỡ do nhiều nguyên nhân khác nhau thì vợ chồng có thể tính toán một cách sòng phẳng phần quyền của mỗi người trong khối tài sản chung hợp nhất. Đặc biệt, vợ chồng có thể dựa vào các quy định liên quan đến công sức đóng góp của người này hay người kia vào sự phát triển của khối tài sản chung để phân chia khối tài sản đó trước khi thực hiện việc yêu cầu chia. Việc chia tài sản chung của vợ, chồng lúc này được thực hiện theo đúng các quy định trong luật chung về chia tài sản thuộc sở hữu chung theo phần, cũng như theo các quy định về chia tài sản sau khi ly hôn, đặc biệt là các quy định về phân chia nhà ở, quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp...
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một trường hợp đặc biệt. Đây được xem như một biện pháp hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của vợ chồng. Khi vợ chồng yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, thông thường họ có thể thỏa thuận mỗi người nhận một nửa tài