Các Trường Hợp Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân

được pháp luật chấp nhận. Lý do vợ, chồng đưa ra phải là lý do chính đáng bởi lẽ sẽ có nhiều cặp vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Trong trường hợp đó theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan thì việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ bị toà án tuyên vô hiệu. Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định các trường hợp vợ chồng chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ tài sản sẽ bị tuyên bố vô hiệu bao gồm: nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp; nghĩa vụ nộp thuế, tài chính đối với Nhà nước; nghĩa vụ trả nợ,… Quy định này đã tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ lợi ích chính đáng của người thứ ba có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, đồng thời góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật.

Mặc dù có những quy định khác nhau ở pháp luật mỗi nước, song nhìn chung pháp luật các nước đều ghi nhận hai điều kiện để chỉ tài sản đó là có lý do chính đáng và có yêu cầu toà án (trừ trường hợp pháp luật cho phép họ tự thoả thuận). Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có tác động đến các thành viên trong gia đình, ít nhiều cũng để lại những tác động không nhỏ đến gia đình, đặc biệt trách nhiệm với gia đình sau khi chia tài sản chung. Do vậy pháp luật cần phải có những căn cứ cụ thể làm cơ sở cho việc chia tài sản chung và chống lại hành vi vi phạm pháp luật, nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản.

2.3 Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

2.3.1 Vợ chồng thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

2.3.1.1 Hình thức của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ khi đã chia phần nào ảnh

hưởng đến chế độ tài sản chung của vợ chồng, quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Chính vì những hậu quả về mặt pháp lý và về mặt xã hội của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên pháp luật quy định thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bắt buộc phải được lập thành văn bản. Quy định này là cần thiết vì những lý do sau đây:

- Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết tranh chấp tài sản giữa hai vợ chồng khi có mâu thuẫn xảy ra;

- Nó là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền lợi của người thứ ba trong các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ chồng;

- Đây là căn cứ để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng để khôi phục lại chế độ tài sản chung của vợ chồng (nếu có);

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

- Là cơ sở pháp lý nhằm ngăn chặn các hành vi chia tài sản chung nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản với bên thứ ba trong các giao dịch dân sự hoặc các hành vi vi phạm pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như khoản 1, 2 Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản nhưng không quy định cụ thể một hình thức văn bản nhất định. Vì vậy, trên thực tế văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất đa dạng, có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản viết tay, văn bản đánh máy, fax, telex,… và tất cả các hình thức này đều được pháp luật chấp nhận.

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam - 7

2.3.1.2 Nội dung của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Bên cạnh việc tuân thủ quy định về mặt hình thức của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, Luật HN&GĐ còn đặt ra các

yêu cầu về mặt nội dung của thỏa thuận chia tài sản chung. Điều 6 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải ghi rõ các nội dung sau:

- Lý do chia tài sản;

- Phần tài sản chia (bao gồm động sản, bất động sản, các quyền tài sản), trong đó cần mô tả chi tiết những tài sản nào được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia;

- Phần tài sản còn lại không chia (nếu có);

- Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;

- Các nội dung khác (nếu có).

Ngoài ra, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả hai vợ chồng, văn bản phải có người làm chứng hoặc được công chứng, theo yêu cầu của vợ chồng hoặc yêu cầu của pháp luật.

Để có cơ sở giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa vợ và chồng và các tranh chấp khác liên quan đến lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch dân sự thì văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản. Việc quy định như trên là tất yếu vì đây chính là một trong những căn cứ xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Nhằm đảm bảo văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có giá trị pháp lý thì văn bản đó còn phải có chữ ký của cả hai vợ chồng. Chữ ký là của cả hai vợ chồng thể hiện sự thống nhất và mặt ý chí của cả hai bên về việc thỏa thuận chia tài sản chung. Nếu văn bản thiếu chữ ký của bất kỳ người nào thì đều không có giá trị pháp lý. Quy định này nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, tránh trường hợp phá tán tài sản chung của vợ chồng.

Luật HN&GĐ năm 1986 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải được Tòa án công nhận, còn theo Luật HN&GĐ năm 2000 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể được công chứng (hoặc không) tùy theo yêu cầu của vợ chồng, trừ trường hợp pháp luật quy định một số trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng bắt buộc phải được công chứng thì văn bản đó phải được công chứng theo đúng quy định (chẳng hạn văn bản thỏa thuận liên quan đến bất động sản). Như vậy, có thể thấy rằng Luật HN&GĐ hiện hành rất tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung của họ. Vợ chồng có quyền thỏa thuận những tài sản nào được chia, phần tài sản nào không chia; tỷ lệ phần chia cho mỗi bên; các yêu cầu khác mà không trái với quy định của pháp luật.

Về cơ bản các thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứa đựng tương đối đầy đủ các nội dung cần thiết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc không quy định thỏa thuận chia tài sản chung phải theo một mẫu văn bản thống nhất, do đó trên thực tế có rất nhiều nội dung không được đề cập. Chẳng hạn như lý do chia tài sản chung, qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy không có thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nào được công chứng tại các văn phòng công chứng ghi nhận lý do chia vì vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc các lý do khác, mặc dù đây là điều khoản bắt buộc. Chính điều này đã tạo ra sự “tùy tiện” để vợ chồng có cơ hội chia tài sản chung không theo đúng quy định của pháp luật, giả sử như trường hợp vợ chồng mâu thuẫn về mặt tình cảm nhưng không muốn ly hôn và không muốn chung sống với nhau mà chỉ muốn chia tài sản chung. Trong những trường hợp như vậy, luật cần dự liệu cần thiết bắt buộc phải ghi nhận lý do chia tài sản chung trong văn bản thỏa thuận để tránh việc gián tiếp thừa nhận chế độ ly thân và đảm bảo đúng bản chất của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Một vấn đề nữa là trong thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không ghi nhận hậu quả sau khi chia tài sản chung là một điều khoản bắt buộc, trong đó có quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau và đối với gia đình sau khi chia tài sản chung. Dù là chia một phần hay chia toàn bộ tài sản thì trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình và đối với nhau vẫn tồn tại trên cơ sở quan hệ nhân thân chưa chấm dứt theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, việc thực hiện nghĩa vụ sau khi chia tài sản chung phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của vợ, chồng. Nếu trong trường hợp sau khi chia tài sản chung mà một trong hai bên vợ chồng rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu và bên kia không quan tâm, chăm sóc thì giải quyết như thế nào? Hoặc trường hợp sau khi chia tài sản chung và mỗi người ở riêng mỗi nơi, con cái ai sẽ chịu trách nhiệm nuôi dạy, hoặc yêu cầu tòa án giải quyết xác định quyền nuôi con sau khi chia tài sản chung thì tòa án có được thụ lý vụ việc và hướng xử lý như thế nào? Với những vấn đề vừa đề cập, luật cần xem xét và có hướng quy định cho phù hợp với thực tiễn.

2.3.1.3 Thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một quá trình phức tạp và tốn kém thời gian. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không phải luôn luôn có hiệu lực pháp luật. Do đó, việc xác định thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất quan trọng và cần thiết, vì hai lý do sau: thứ nhất, đây là cơ sở pháp lý để xác định khi nào vợ (chồng) có quyền sở hữu tài sản chung đã chia; thứ hai, căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung, vợ (chồng) đã được chia tài sản không cần có sự bàn bạc, thỏa thuận với người còn lại đối với tài sản đã chia.

Tùy từng trường hợp cụ thể mà việc xác định thời điểm có hiệu lực của

thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là khác nhau. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định cụ thể về hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Để giải quyết về vấn đề hiệu lực này, Điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung gồm một số trường hợp cụ thể như sau:

- Trong trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản;

Thực tế có rất nhiều cặp vợ chồng muốn chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng vì một vài lý do nào đó, trong văn bản thỏa thuận chia không xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia dẫn đến văn bản này không có hiệu lực thi hành. Để đảm bảo khả năng thực thi của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật yêu cầu văn bản thỏa thuận phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập biên bản để có cơ sở giải quyết nếu có mâu thuẫn xảy ra.

- Thời điểm có hiệu lực được xác định theo thỏa thuận của vợ chồng ghi trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung.

Trên cơ sở tôn trọng tuyệt đối quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản, pháp luật HN&GĐ cho phép vợ chồng được quyền thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đồng nghĩa họ có quyền ấn định thời điểm thỏa thuận chia đó có hiệu lực pháp luật. Có nghĩa vợ chồng được quyền ấn định ngày, tháng, năm làm phát sinh hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không cần có sự can thiệp của bất kỳ chủ thể nào. Việc cho phép vợ chồng có quyền ấn định ngày làm phát sinh hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vợ chồng có sự chuẩn bị kỹ về mọi mặt sau khi chia tài sản chung và chủ động thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, thực tế đã có một số cặp vợ chồng lợi dụng quyền

năng này để chia tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự hoặc các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên và nhằm mục đích ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, pháp luật cần quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhất thiết phải có công chứng, chứng thực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định.

- Trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng thì thời điểm có hiệu lực của văn bản được tính như sau:

+ Nếu trong văn bản thỏa thuận xác định rõ ngày có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thỏa thuận đó.

+ Nếu trong văn bản không xác định ngày có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.

- Trong trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật như chia quyền sử dụng đất, chia nhà ở,… thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.

Tóm lại, thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một yếu tố rất quan trọng để văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực pháp lý, do đó cần thiết phải tuân thủ theo đúng các yêu cầu của pháp luật về nội dung và hình thức của văn bản thỏa thuận.

2.3.2 Vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Trên thực tế không phải mọi trường hợp các cặp vợ chồng có thể tự chia tài sản chung theo thỏa thuận giữa hai người. Có thể vì một lý do nào đó làm nảy sinh những bất đồng, mâu thuẫn mà vợ chồng không thể tự mình thực hiện việc chia tài sản chung. Trong những trường hợp như vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 cho phép vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết những nguyện vọng chính đáng của vợ, hoặc chồng. Một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết là nguyên tắc chia đôi tài sản chung. Đa phần hiện nay các Tòa án giải quyết chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đều áp dụng nguyên tắc này để chia. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật hiện hành lại không ghi nhận nguyên tắc này. Hồi chiếu Luật HN&GĐ năm 1986 cho thấy đã có ghi nhận nguyên tắc này trong quá trình giải quyết các vụ việc về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như khi giải quyết các vụ án ly hôn. Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 quy định:

Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 42 của Luật này”.

Như vậy, Tòa án phải căn cứ vào quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ năm 1986 để giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, tài sản của vợ chồng được chia như sau:

- Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy;

- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên;

- Trong trường hợp vợ chồng do còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn cứ vào công sức của người được chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;

- Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp [29].

Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 không ghi nhận nguyên tắc này để

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí